Xuất khẩu lao động mang đến cơ hội việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều lao động Việt Nam. Thế nhưng, vì thiếu hiểu biết mà không ít người chọn con đường xuất khẩu lao động trái phép, tức là vượt biên trái quy định của pháp luật, thường thông qua người môi giới. Đây là hành vi vi phạm pháp luật, tiềm ẩn rủi ro bị phạt tiền, thậm chí bị truy cứu hình sự.
1. Xuất khẩu lao động trái phép là gì?
Quy định này được nêu cụ thể tại Khoản 2 Điều 5 Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019 như sau:
Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019
Điều 5. Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam
...
2. Công dân Việt Nam có các nghĩa vụ sau đây:
a) Chấp hành quy định của pháp luật Việt Nam về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và pháp luật của nước đến khi ra nước ngoài;
b) Thực hiện thủ tục đề nghị cấp giấy tờ xuất nhập cảnh, gia hạn hộ chiếu, khôi phục giá trị sử dụng hộ chiếu theo quy định của Luật này;
c) Sử dụng giấy tờ xuất nhập cảnh do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp để xuất cảnh, nhập cảnh;
d) Chấp hành yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc kiểm tra người, hành lý, giấy tờ xuất nhập cảnh khi làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh;
đ) Nộp lệ phí cấp giấy tờ xuất nhập cảnh theo quy định của pháp luật.
...
Xuất khẩu lao động trái phép có thể hiểu là hành vi tự ý vượt biên hoặc thông qua các đường dây, tổ chức môi giới trái phép để sang nước ngoài làm việc mà không qua cơ quan, doanh nghiệp được Nhà nước cấp phép. Người lao động thường bị dụ dỗ bởi những lời hứa hẹn hấp dẫn: không cần thủ tục rườm rà, chi phí thấp, đi nhanh, việc làm lương cao. Thế nhưng, trên thực tế, họ phải đối mặt với hàng loạt rủi ro và hậu quả nặng nề.
Việc ra nước ngoài lao động mà không làm đúng thủ tục xuất nhập cảnh là vi phạm pháp luật. Khoản 2 Điều 5 Luật Xuất cảnh, nhập cảnh nêu rõ nghĩa vụ công dân là phải làm thủ tục xuất nhập cảnh, sử dụng giấy tờ hợp pháp, chấp hành kiểm tra tại cửa khẩu. Người vượt biên trái phép đồng nghĩa với việc né tránh tất cả các nghĩa vụ này. Ngoài ra, bản thân người tổ chức, môi giới cho người khác đi lao động trái phép cũng vi phạm pháp luật, thậm chí có thể bị truy cứu hình sự.
Tình huống giả định
Nguyễn Thị Lan, 27 tuổi, quê Nghệ An, vì nghe lời giới thiệu của Phạm Văn Hùng, hàng xóm, đã đóng 60 triệu đồng để được đưa sang Malaysia làm việc nhà hàng, không cần hợp đồng, giấy tờ. Lan cùng bốn người khác vượt biên trái phép qua đường rừng Lào, nối chuyến bay sang Malaysia mà không làm thủ tục xuất nhập cảnh theo quy định.
Tại Malaysia, nhóm của Lan bị giữ hộ chiếu, ép làm việc không lương, không nghỉ ngơi. Sau ba tuần, cảnh sát địa phương bắt giữ, trục xuất cả nhóm về Việt Nam. Lan bị xử phạt hành chính, mất trắng số tiền vay mượn. Còn Hùng, kẻ môi giới, bị công an khởi tố về tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép, đối mặt án phạt tù từ 5 đến 10 năm.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
2. Xuất khẩu lao động trái phép bị phạt bao nhiêu tiền?
Quy định này được nêu cụ thể tại điểm a khoản 3 Điều 18 và khoản 2 Điều 4 Nghị định 144/2021/NĐ-CP như sau:
Điều 18. Vi phạm các quy định về xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú và đi lại
...
3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Qua lại biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định của pháp luật;
...
Điều 4. Quy định về mức phạt tiền tối đa, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính
...
2. Mức phạt tiền quy định tại Chương II Nghị định này là mức phạt được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Đối với tổ chức có cùng hành vi vi phạm, mức phạt tiền gấp 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
...
Xuất khẩu lao động trái phép là hành vi vi phạm quy định quản lý xuất nhập cảnh. Khi một người lao động lựa chọn vượt biên không làm thủ tục chính thức, họ đã vi phạm nghĩa vụ công dân được quy định tại Luật Xuất cảnh, nhập cảnh. Trong trường hợp bị phát hiện, cơ quan chức năng có quyền xử phạt hành chính, áp dụng mức phạt từ 3 đến 5 triệu đồng với cá nhân, gấp đôi đối với tổ chức. Nếu đi theo đường dây môi giới, tình hình càng phức tạp hơn, vì các cá nhân, tổ chức này có thể bị xử lý hình sự.
Không chỉ dừng lại ở mức phạt tiền, hậu quả của việc xuất khẩu lao động trái phép kéo dài rất lâu, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến người lao động và gia đình họ. Ngoài ra, khi bị chính quyền nước sở tại phát hiện, họ không chỉ bị trục xuất, cấm nhập cảnh trở lại, mà hồ sơ di trú của họ còn bị ghi nhận xấu, gây khó khăn cho các cơ hội xin visa, làm việc hợp pháp về sau.
Tình huống giả định
Nguyễn Văn Hưng, 30 tuổi, sống tại Thanh Hóa, là lao động tự do, công việc bấp bênh, thu nhập thấp. Qua lời giới thiệu của người quen tên Lê Minh Tuấn, Hưng được rỉ tai về một cơ hội đi Hàn Quốc làm việc tại xưởng may với mức lương 30 triệu đồng/tháng. Tuấn cam kết lo mọi thủ tục "nhanh gọn, không cần visa, không cần hộ chiếu", chỉ cần đóng 70 triệu đồng để đi qua đường biên Trung Quốc rồi nối chuyến bay.
Hưng tin lời, chạy vay mượn khắp nơi gom đủ tiền, giao cho Tuấn. Vào ngày hẹn, Hưng cùng nhóm bảy người khác lên xe khách ra biên giới Lạng Sơn, được người dẫn đường đưa băng rừng vượt biên trái phép sang Trung Quốc. Tuy nhiên, khi đến điểm hẹn tại biên giới, nhóm Hưng bị lực lượng biên phòng phát hiện, bắt giữ.
Về Việt Nam, Hưng bị xử phạt hành chính 5 triệu đồng vì hành vi vượt biên trái phép. Không chỉ mất trắng 70 triệu đồng, Hưng còn mang về khoản nợ lớn khiến gia đình khốn đốn, phải bán đi mảnh đất ruộng duy nhất. Trong khi đó, Lê Minh Tuấn là người tổ chức, môi giới bị cơ quan công an điều tra, khởi tố về tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép. Theo hồ sơ, Tuấn đã nhiều lần tổ chức đưa người vượt biên, thu lợi hàng trăm triệu đồng, đối mặt mức án 7 đến 10 năm tù.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
3. Môi giới xuất khẩu lao động trái phép có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Căn cứ theo Điều 349 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:
Điều 349. Tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép
1. Người nào tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 120 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Đối với từ 05 người đến 10 người;
d) Có tính chất chuyên nghiệp;
đ) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Đối với 11 người trở lên;
b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;
c) Làm chết người.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Hành vi tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép không chỉ vi phạm pháp luật mà còn bị xử lý bằng những chế tài hình sự rất nặng. Theo Điều 349 Bộ luật Hình sự, người vi phạm sẽ bị chia thành ba nhóm chính, tùy mức độ và hậu quả.
1. Chỉ cần tổ chức hoặc môi giới cho một người trốn đi nước ngoài (nếu không thuộc trường hợp đặc biệt khác), người phạm tội đã có thể bị phạt tù từ 1 đến 5 năm.
2. Nếu hành vi có yếu tố tăng nặng, như phạm tội từ hai lần trở lên, tổ chức cho từ 5 đến 10 người trốn đi, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn, hoặc thu lợi bất chính từ 100 triệu đồng trở lên, mức phạt lập tức nâng lên từ 5 đến 10 năm tù.
3. Nghiêm trọng nhất là khi hành vi tổ chức, môi giới liên quan đến 11 người trở lên, thu lợi bất chính từ 500 triệu đồng trở lên, hoặc gây hậu quả làm chết người. Những trường hợp này, người phạm tội phải đối mặt với mức án rất nặng: từ 7 đến 15 năm tù, kèm theo phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề liên quan từ 1 đến 5 năm.
Tình huống giả định
Phạm Văn Tuấn, 42 tuổi, ở tỉnh Hà Nam, đã tổ chức nhiều đường dây đưa người lao động trái phép sang Nhật Bản làm việc. Tuấn trực tiếp móc nối với các đối tượng bên kia biên giới, thu của mỗi người từ 80–100 triệu đồng, hứa hẹn công việc lương cao, thủ tục nhanh, không cần hợp đồng chính thức. Trong vòng một năm, Tuấn đã đưa tổng cộng 15 người trốn đi nước ngoài, thu lợi bất chính hơn 1,2 tỷ đồng.
Khi một nhóm lao động bị bắt giữ tại sân bay Nhật Bản và trục xuất về Việt Nam, cơ quan chức năng điều tra, phát hiện và bắt giữ Tuấn. Với hành vi tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép, đối với hơn 11 người và thu lợi trên 500 triệu đồng, Tuấn bị truy tố theo khoản 3 Điều 349 Bộ luật Hình sự, đối mặt mức án 7–15 năm tù giam, kèm phạt tiền và cấm hành nghề liên quan.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
4. Kết luận
Xuất khẩu lao động trái phép không chỉ là lựa chọn sai lầm mà còn là hành vi vi phạm pháp luật, mang đến hàng loạt hệ lụy nghiêm trọng. Người lao động đi trái phép có thể bị phạt hành chính, mất cơ hội làm việc hợp pháp, đối mặt rủi ro bị bóc lột, lừa đảo, hoặc bị bắt giữ, trục xuất, cấm nhập cảnh. Về phía những người tổ chức, môi giới, pháp luật xử lý rất nghiêm khắc, có thể phạt tù lên tới 15 năm, kèm phạt tiền và cấm hành nghề, nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, uy tín đất nước, cũng như quyền lợi của chính công dân Việt Nam.