Quy chế Tòa án quốc tế 1945
Chương 2.
QUYỀN HẠN CỦA TÒA ÁN
Điều 34.
1. Chỉ các quốc gia mới là các bên trong các vụ tranh chấp được Tòa án giải quyết.
2. Với các điều kiện của bản quy chế này, Tòa án có thể được hỏi các tổ chức quốc tế công khai về những tin tức có liên quan đến vụ tranh chấp mà Tòa án đang xem xét, cũng như thu nhập các tin tức cần thiết được tổ chức đó chuyển đến theo sáng kiến riêng của họ.
3. Khi có một vụ tranh chấp đang được Tòa án giải quyết. Tòa án phải giải thích văn kiện pháp lý cho một tổ chức quốc tế nào đó hay một điều ước quốc tế đã công nhận hiệu lực của văn bản đó. Thư ký Tòa án thông báo và gửi cho tổ chức quốc tế đó bản sao tất cả các hồ sơ giấy tờ đó.
Điều 35.
1. Tòa án giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia là thành viên của quy chế này.
2. Các điều kiện Tòa án giải quyết tranh chấp đối với các quốc gia khác sẽ do Hội đồng bảo an quy định theo các điều khoản cụ thể từ các điều ước quốc tế hiện hành. Các điều kiện này trong mọi trường hợp không được để các bên ở vị trí bất bình đẳng trước Tòa án.
3. Khi có một quốc gia không phải là thành viên của Liên hiệp quốc nhưng lại là một bên trong một vụ tranh chấp thì Tòa án quy định số tiền mà bên đó phải đóng góp vào việc chi phí của Tòa án. Quyết định này không áp dụng nếu như quốc gia đó đã tham gia vào việc chi phí của Tòa án.
Điều 36.
1. Tòa án tiến hành xét tất cả các vụ tranh chấp mà các bên đưa ra và tất cả các vấn đề được nêu riêng trong hiến chương Liên hợp quốc hay các điều ước quốc tế hiện hành.
2. Các quốc gia thành viên của quy chế này bất kỳ lúc nào cũng có thể tuyên bố rằng họ thừa nhận vô điều kiện (ifso facto) đối với mỗi quốc gia khác bất kỳ đã nhận nhiệm vụ như vậy: thẩm quyền xét xử của Tòa án là nghĩa vụ xét xử về tất cả vấn đề tranh chấp pháp lý có liên quan đến:
a. Giải thích điều ước.
b. Vấn đề bất kỳ liên quan đến Luật quốc tế.
c. Có sự kiện, nếu về sau xác định được vi phạm nghĩa vụ quốc tế.
d. Tính chất mà mức độ bồi hoàn do vi phạm nghĩa vụ quốc tế.
3. Những tuyên bố nêu trên có thể là không điều kiện hay trong điều kiện có thiện cảm từ phía các quốc gia này hay quốc gia khác hay trong thời gian nhất định.
4. Những bản tuyên bố đó được chuyển tới Tổng thư ký bảo quản. Tổng thư ký gửi các bản sao cho các thành viên của quy chế này và cho thư ký Tòa án.
5. Các tuyên bố dựa trên cơ sở của điều 36 quy chế của Thường trực Pháp viện quốc tế vẫn còn có hiệu lực, thì trong quan hệ giữa các thành viên của quy chế này, các tuyên bố đó được coi như công nhận thẩm quyền xét xử của Tòa án quốc tế và là nghĩa vụ đối với mình trong thời hiện tại có hiệu lực của các tuyên bố và phù hợp với các điều kiện đã trình bày trong đó.
6. Trong trường hợp tranh chấp về quyền xét xử được đưa đến Tòa án thì vấn đề đó sẽ được Tòa án xác định và giải quyết.
Điều 37. Trong tất cả các trường hợp khi điều ước quốc tế hiện hành dự kiến chuyển vụ tranh chấp cho một tòa án được Hội quốc liên hay Thường trực pháp viện quốc tế thiết lập thì vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên của quy chế này phải được chuyển đến Tòa án quốc tế.
Điều 38.
1. Tòa án, với chức năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các vụ tranh chấp được chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:
a. Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc được các bên đang tranh chấp thừa nhận;
b. Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận như những quy phạm pháp luật;
c. Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận
d. Với những điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ và các học thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của các quốc gia khác nhau được coi là phương tiện để xác định các qui phạm pháp luật.
2. Quyết định này không nằm ngoài quyền giải quyết vụ việc của Tòa án, xác định như vậy (ex aequo et bono), nếu các bên thỏa thuận điều này.
Tòa án quốc tế (ICJ) có vai trò then chốt trong việc giải quyết các tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia. Theo quy chế tổ chức, chỉ có quốc gia mới được là bên trong các vụ việc do Tòa thụ lý. Những tranh chấp mà Tòa án được quyền xét xử thường xoay quanh việc giải thích điều ước, áp dụng luật quốc tế, xác định trách nhiệm pháp lý nếu có hành vi vi phạm nghĩa vụ quốc tế và yêu cầu bồi thường thiệt hại từ quốc gia vi phạm.
Ngoài chức năng xét xử tranh chấp, Tòa án quốc tế còn thực hiện chức năng tư vấn pháp lý. Khi được Đại hội đồng hoặc Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc yêu cầu, Tòa có thể đưa ra ý kiến tư vấn về những vấn đề pháp lý quốc tế phát sinh từ hoạt động của các tổ chức này. Các ý kiến tư vấn này không mang tính ràng buộc, nhưng có giá trị tham khảo rất lớn về mặt pháp lý và chính trị.
Trong quá trình xét xử, Tòa án có quyền yêu cầu các tổ chức quốc tế công khai cung cấp thông tin, thu thập chứng cứ từ các bên tranh chấp, và thậm chí quy định chi phí mà một quốc gia không phải thành viên phải đóng góp nếu tham gia vụ kiện.
Tòa án quốc tế cũng áp dụng nguồn luật quốc tế đa dạng khi xét xử, bao gồm các điều ước quốc tế giữa các bên liên quan, tập quán quốc tế (các hành vi lặp lại được chấp nhận như quy phạm pháp luật), nguyên tắc chung của luật quốc tế, án lệ và học thuyết pháp lý của các học giả được coi là nguồn tham khảo quan trọng.
Trong một số trường hợp, nếu các bên đồng ý, Tòa án có thể đưa ra phán quyết trên cơ sở công bằng và lẽ phải, thay vì chỉ dựa trên văn bản pháp luật.
Tình huống giả định:
Campuchia và Lào tranh chấp nguồn nước sông Sekong tại Tòa án quốc tế
Campuchia và Lào cùng chia sẻ dòng sông Sekong – một nhánh của hệ thống sông Mekong. Trong quá trình phát triển thủy điện, Lào đã xây dựng một con đập lớn trên thượng nguồn, khiến Campuchia cho rằng dòng chảy về hạ lưu bị ảnh hưởng nghiêm trọng, gây hạn hán và thiệt hại nặng cho sản xuất nông nghiệp cũng như sinh kế của người dân ở tỉnh Stung Treng.
Sau nhiều năm đàm phán song phương và thông qua Ủy hội sông Mekong mà không đạt được kết quả, hai quốc gia đồng thuận đưa tranh chấp ra Tòa án quốc tế (ICJ). Tòa án tiếp nhận vụ việc, yêu cầu hai bên cung cấp đầy đủ chứng cứ và căn cứ pháp lý, đặc biệt là các điều ước quốc tế liên quan đến quản lý và sử dụng tài nguyên nước xuyên biên giới.
Căn cứ nguyên tắc phát triển bền vững, sử dụng công bằng tài nguyên chung và không gây thiệt hại đáng kể cho quốc gia khác, Tòa án phán quyết yêu cầu Lào điều chỉnh quy trình vận hành đập thủy điện để bảo đảm dòng chảy tối thiểu về Campuchia, đồng thời thiết lập cơ chế phối hợp giám sát và cảnh báo với phía Campuchia để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cả hai bên.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
3. Kết luận
Tòa án quốc tế là cơ quan xét xử chính thức của Liên Hợp Quốc, có chức năng giải quyết các tranh chấp pháp lý giữa các quốc gia dựa trên luật quốc tế. Cơ cấu tổ chức của Tòa đảm bảo tính độc lập và đa quốc gia, giúp tạo sự tin cậy trong các phiên xét xử. Với quyền hạn rộng, Tòa không chỉ giải quyết các vụ kiện cụ thể mà còn đưa ra ý kiến tư vấn pháp lý cho các tổ chức quốc tế, góp phần giữ gìn trật tự pháp lý và hòa bình toàn cầu.