Tố tụng hình sự là một quá trình pháp lý quan trọng nhằm xác định và xử lý các hành vi phạm tội. Việc khởi tố vụ án hình sự là bước đầu tiên và có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ quá trình tố tụng. Bài viết này sẽ đi sâu vào trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự, quy định về căn cứ khởi tố, nhiệm vụ và quyền hạn của Điều tra viên, đồng thời cung cấp các ví dụ thực tế cho từng trường hợp.
1. Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được quy định tại Điều 18 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015:
Điều 18. Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự
Khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, pháp nhân phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định.
Theo quy định, khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, cơ quan chức năng có trách nhiệm:
-
Khởi tố vụ án.
-
Áp dụng các biện pháp theo Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội.
Ví dụ thực tế:
Công an TP. Hồ Chí Minh khởi tố vụ án hình sự liên quan đến vụ đánh bạc trên không gian mạng với giao dịch lên đến hàng nghìn tỷ đồng
Công an TP.HCM đã triệt phá một đường dây đánh bạc trực tuyến quy mô lớn với tổng giao dịch lên đến 88.000 tỷ đồng. Đường dây này hoạt động thông qua các trang web cá cược trực tuyến, liên kết với nhiều tài khoản ngân hàng để chuyển tiền. Nhiều đối tượng cầm đầu, bao gồm những kẻ tổ chức, môi giới và vận hành hệ thống, đã bị bắt giữ. Vụ án cho thấy mức độ phức tạp và quy mô lớn của tội phạm công nghệ cao, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội khi hàng nghìn người tham gia cá cược bất hợp pháp.
Nguồn: VnExpress
2. Nhiệm vụ và quyền hạn của điều tra viên khi khởi tố vụ án
Điều tra viên có nhiều nhiệm vụ và quyền hạn quan trọng trong quá trình điều tra vụ án hình sự, được quy định tại Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
Điều 37. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên
1. Điều tra viên được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự có những nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Trực tiếp kiểm tra, xác minh và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm;
b) Lập hồ sơ vụ án hình sự;
c) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật;
d) Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, bị hại, đương sự;
đ) Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội;
e) Thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, xử lý vật chứng;
g) Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này.
2. Điều tra viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra về hành vi, quyết định của mình.
Theo Điều 37 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, nhiệm vụ của điều tra viên bao gồm:
-
Xác minh, kiểm tra và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm.
-
Triệu tập, hỏi cung bị can và lấy lời khai các bên liên quan.
-
Quyết định bắt, tạm giam, khám xét, thu giữ tài sản liên quan.
-
Tiến hành các hoạt động khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra.
Ví dụ thực tế:
Nhiệm Vụ Và Quyền Hạn Của Điều Tra Viên Trong Vụ Án Buôn Lậu Qua Cửa Khẩu Móng Cái
Năm 2022, Công an tỉnh Quảng Ninh phát hiện một đường dây buôn lậu hàng hóa qua cửa khẩu Móng Cái với quy mô lớn. Sau quá trình thu thập chứng cứ, cơ quan điều tra đã quyết định khởi tố vụ án để làm rõ hành vi vi phạm pháp luật. Điều tra viên được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu, bao gồm thu thập tài liệu, chứng cứ từ các đơn vị hải quan, doanh nghiệp và cá nhân liên quan, đồng thời xác minh phương thức, thủ đoạn vận chuyển hàng lậu qua biên giới.
Trong quá trình điều tra, điều tra viên triệu tập hơn 30 đối tượng có liên quan, bao gồm chủ hàng, người vận chuyển và cả cán bộ hải quan bị tình nghi tiếp tay. Các đối tượng được lấy lời khai nhằm xác định vai trò của từng người trong đường dây buôn lậu. Song song với đó, điều tra viên cũng thực hiện khám xét các kho hàng, phương tiện vận chuyển, thu giữ hàng lậu và các tài liệu quan trọng, đồng thời lập biên bản niêm phong để phục vụ điều tra.
Dựa trên các chứng cứ thu thập được, điều tra viên tiến hành xác định mức độ vi phạm của từng đối tượng để đề xuất khởi tố bị can. Một số đối tượng cầm đầu bị áp dụng biện pháp ngăn chặn như tạm giam hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú để tránh nguy cơ bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Ngoài ra, điều tra viên còn phối hợp với Viện kiểm sát để đề nghị phê chuẩn các quyết định tố tụng, cũng như hợp tác với Hải quan và Biên phòng để mở rộng điều tra, truy tìm các đối tượng có liên quan.
Sau quá trình điều tra, cơ quan công an đã khởi tố 10 bị can về hành vi buôn lậu và tiếp tay cho buôn lậu. Số hàng vi phạm trị giá hàng chục tỷ đồng đã bị tịch thu và xử lý theo quy định pháp luật. Vụ án này cho thấy rõ vai trò quan trọng của điều tra viên trong việc khởi tố, điều tra và xử lý các vụ án hình sự, đặc biệt là các vụ buôn lậu quy mô lớn qua biên giới.
Nguồn: Báo Thanh Niên
3. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Dựa trên các căn cứ được quy định tại Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:
Điều 143. Căn cứ khởi tố vụ án hình sự
Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ:
1. Tố giác của cá nhân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
3. Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng;
4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước;
5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm;
6. Người phạm tội tự thú.
Ví dụ thực tế:
Khởi Tố Vụ Án Cướp Ngân Hàng Sau Tố Giác Của Người Dân
Năm 2021, tại Hà Nội, đã xảy ra một vụ cướp ngân hàng đáng chú ý. Cụ thể, vào khoảng 9h ngày 7/3, hai đối tượng Nguyễn Văn Hiếu (sinh năm 1991, trú tại phường Đức Thắng, quận Bắc Từ Liêm) và Nguyễn Thanh Tùng (sinh năm 1981, trú tại quận Thanh Xuân) đã sử dụng hai con dao cùng một vật giống súng xông vào một ngân hàng trên địa bàn phường Xuân Tảo, quận Bắc Từ Liêm. Tại đây, chúng đe dọa, khống chế hai nhân viên và một bảo vệ, cướp đi số tiền hơn 500 triệu đồng. Trong quá trình tẩu thoát, do bị truy đuổi và va chạm với người đi đường, các đối tượng làm rơi hơn 300 triệu đồng. Sau 16 giờ, lực lượng công an đã bắt giữ hai đối tượng này. Bước đầu xác định, do nợ nần nhiều tiền, Hiếu và Tùng quen biết nhau qua nhóm "Những người vỡ nợ muốn làm liều". Cả hai đã chi 1,4 triệu đồng để mua dụng cụ gây án và trang phục hóa trang nhằm trốn tránh cơ quan công an. Ngày 16/3, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Hà Nội đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra mở rộng vụ án.
Nguồn: VietNamNet News
4. Kết luận
Việc khởi tố và xử lý vụ án hình sự là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật. Các quy định về trách nhiệm khởi tố, nhiệm vụ và quyền hạn của Điều tra viên, cũng như căn cứ khởi tố vụ án, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính công bằng, minh bạch và hiệu quả của quá trình tố tụng hình sự.