Thuế nhà thầu có áp dụng cho bản quyền game từ doanh nghiệp nước ngoài?

Thuế nhà thầu có áp dụng cho bản quyền game từ doanh nghiệp nước ngoài?

Tiền bản quyền game được coi là thu nhập từ quyền sở hữu trí tuệ và phải chịu thuế nhà thầu tại Việt Nam.

Khi lĩnh vực phát hành và khai thác trò chơi điện tử ngày càng phát triển, các doanh nghiệp nước ngoài thường thu tiền bản quyền từ đối tác tại Việt Nam thông qua hình thức cấp quyền sử dụng game, phần mềm hoặc giao diện liên quan. Thu nhập từ bản quyền game của doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam phải tuân thủ quy định về thuế nhà thầu và các loại thuế liên quan.

 

1. Thu nhập từ bản quyền game có phải là thu nhập từ tiền bản quyền không?

Thu nhập từ bản quyền game có phải là thu nhập từ tiền bản quyền không?

Trả lời vắn tắt: . Thu nhập từ bản quyền game được coi là thu nhập từ tiền bản quyền theo quy định pháp luật Việt Nam.

Khoản 3 Điều 7 Thông tư 103/2014/TT-BTC có quy về việc thu thuế thu nhập doanh nghiệp như sau:

Thông tư 103/2014/TT-BTC

Điều 7. Thu nhập chịu thuế TNDN

...

3. Thu nhập phát sinh tại Việt Nam của Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài là các khoản thu nhập nhận được dưới bất kỳ hình thức nào trên cơ sở hợp đồng nhà thầu, hợp đồng nhà thầu phụ (trừ trường hợp quy định tại Điều 2 Chương I), không phụ thuộc vào địa điểm tiến hành hoạt động kinh doanh của Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài. Thu nhập chịu thuế của Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài trong một số trường hợp cụ thể như sau:

- Thu nhập từ chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; chuyển nhượng quyền tham gia hợp đồng kinh tế/dự án tại Việt Nam, chuyển nhượng quyền tài sản tại Việt Nam.

- Thu nhập từ tiền bản quyền là khoản thu nhập dưới bất kỳ hình thức nào được trả cho quyền sử dụng, chuyển quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, bản quyền phần mềm (bao gồm: các khoản tiền trả cho quyền sử dụng, chuyển giao quyền tác giả và quyền chủ sở hữu tác phẩm; chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp; chuyển giao công nghệ, bản quyền phần mềm).

“Quyền tác giả, quyền chủ sở hữu tác phẩm”, “Quyền sở hữu công nghiệp”, "Chuyển giao công nghệ" quy định tại Bộ Luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Thu nhập từ chuyển nhượng, thanh lý tài sản.

- Thu nhập từ Lãi tiền vay: là thu nhập của Bên cho vay từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào mà khoản vay đó có hay không được đảm bảo bằng thế chấp, người cho vay đó có hay không được hưởng lợi tức của người đi vay; thu nhập từ lãi tiền gửi (trừ lãi tiền gửi của các cá nhân người nước ngoài và lãi tiền gửi phát sinh từ tài khoản tiền gửi để duy trì hoạt động tại Việt Nam của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam), kể cả các khoản thưởng đi kèm lãi tiền gửi (nếu có); thu nhập từ lãi trả chậm theo quy định của các hợp đồng; thu nhập từ lãi trái phiếu, chiết khấu giá trái phiếu (trừ trái phiếu thuộc diện miễn thuế), tín phiếu kho bạc; thu nhập từ lãi chứng chỉ tiền gửi.

Lãi tiền vay bao gồm cả các khoản phí mà Bên Việt Nam phải trả theo quy định của hợp đồng.

- Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán.

- Tiền phạt, tiền bồi thường thu được từ bên đối tác vi phạm hợp đồng.

- Các khoản thu nhập khác theo quy định của pháp luật.

Dựa vào quy định nêu trên, có thể thấy rằng bất kỳ khoản thu nhập nào mà doanh nghiệp nước ngoài nhận được từ việc cấp phép sử dụng trò chơi điện tử tại Việt Nam – bao gồm cả phần mềm game, giao diện, hình ảnh, âm thanh, cốt truyện hay nhân vật… – đều thuộc nhóm thu nhập từ tiền bản quyền. Đây là loại thu nhập được hình thành từ quyền sử dụng hoặc chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, bản quyền phần mềm – những nội dung được pháp luật Việt Nam bảo hộ theo Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật Dân sự và các văn bản có liên quan.

Thực tế, khi doanh nghiệp nước ngoài cung cấp game cho thị trường Việt Nam thông qua hình thức cấp quyền khai thác, kinh doanh, phân phối hoặc tải về từ các kho ứng dụng, thì điều đó có thể được xem là hành vi chuyển quyền sử dụng tài sản trí tuệ. Khoản thu từ hoạt động này, bất kể có được thực hiện tại Việt Nam hay từ nước ngoài, đều được coi là thu nhập phát sinh tại Việt Nam nếu người dùng cuối là cá nhân, tổ chức tại Việt Nam. Do đó, khoản thu này sẽ chịu thuế nhà thầu, trừ trường hợp doanh nghiệp nước ngoài đã thành lập pháp nhân, văn phòng thường trú và kê khai thuế theo hình thức khác phù hợp với pháp luật Việt Nam.

Tình huống giả định:

Chi cục Thuế TP.HCM xác định khoản thu từ game là tiền bản quyền chịu thuế

Tháng 9/2025, Công ty Cổ phần Phát hành Game Việt Giải Trí, có trụ sở tại Quận 1 (TP.HCM), ký hợp đồng với Công ty Nexus Interactive Inc. (trụ sở tại Hàn Quốc) để sử dụng độc quyền bản quyền một trò chơi trực tuyến trong thời hạn 3 năm tại thị trường Việt Nam. Theo hợp đồng, phía Việt Nam thanh toán cho Nexus số tiền 2 triệu USD để được quyền phát hành game, giữ nguyên nội dung, hình ảnh, kỹ thuật như bản gốc, không có hoạt động chuyển giao mã nguồn hay can thiệp kỹ thuật.

Sau khi giao dịch hoàn tất, Công ty Giải Trí lập báo cáo thuế, nhưng không kê khai thuế nhà thầu đối với khoản thanh toán bản quyền nêu trên. Khi rà soát hồ sơ, Chi cục Thuế Quận 1 xác định đây là khoản thu nhập từ tiền bản quyền, vì nó được trả để đổi lấy quyền sử dụng bản quyền phần mềm trò chơi điện tử, thuộc đối tượng chịu thuế nhà thầu theo quy định tại khoản 3 Điều 7.

Cơ quan thuế lập biên bản vi phạm, yêu cầu Công ty Việt Giải Trí nộp bổ sung thuế nhà thầu cho khoản chi phí này, bao gồm thuế thu nhập doanh nghiệp 10%, kèm theo tiền chậm nộp. Trong buổi làm việc, đại diện công ty cho rằng "phần mềm game là nội dung giải trí, không phải chuyển giao công nghệ nên không thuộc diện bản quyền".

Tuy nhiên, Chi cục Thuế khẳng định bản quyền phần mềm game nằm trong phạm vi điều chỉnh của quy định về tiền bản quyền, vì đây là khoản chi trả cho quyền sử dụng sản phẩm trí tuệ, không phụ thuộc vào việc có chuyển giao công nghệ hay không. Kết luận, cơ quan chức năng yêu cầu nộp đủ thuế và điều chỉnh lại kê khai thuế cho các kỳ sau, đồng thời cảnh báo rủi ro pháp lý nếu tiếp tục vi phạm.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)

2. Doanh nghiệp nước ngoài thu tiền bản quyền game tại Việt Nam có phải nộp thuế nhà thầu không?

Doanh nghiệp nước ngoài thu tiền bản quyền game tại Việt Nam có phải nộp thuế nhà thầu không?

Trả lời vắn tắt: . Doanh nghiệp nước ngoài phát sinh thu nhập từ bản quyền game tại Việt Nam thì thuộc đối tượng chịu thuế nhà thầu.

Căn cứ quy định tại Điều 1 Thông tư 103/2014/TT-BTC:

Thông tư 103/2014/TT-BTC

Điều 1. Đối tượng áp dụng

Hướng dẫn tại Thông tư này áp dụng đối với các đối tượng sau (trừ trường hợp nêu tại Điều 2 Chương I):

1. Tổ chức nước ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài kinh doanh là đối tượng cư trú tại Việt Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam (sau đây gọi chung là Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài) kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng, thỏa thuận, hoặc cam kết giữa Nhà thầu nước ngoài với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc giữa Nhà thầu nước ngoài với Nhà thầu phụ nước ngoài để thực hiện một phần công việc của Hợp đồng nhà thầu.

2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp hàng hóa tại Việt Nam theo hình thức xuất nhập khẩu tại chỗ và có phát sinh thu nhập tại Việt Nam trên cơ sở Hợp đồng ký giữa tổ chức, cá nhân nước ngoài với các doanh nghiệp tại Việt Nam (trừ trường hợp gia công và xuất trả hàng hóa cho tổ chức, cá nhân nước ngoài) hoặc thực hiện phân phối hàng hóa tại Việt Nam hoặc cung cấp hàng hóa theo điều kiện giao hàng của các điều khoản thương mại quốc tế - Incoterms mà người bán chịu rủi ro liên quan đến hàng hóa vào đến lãnh thổ Việt Nam.

Ví dụ 1:

- Trường hợp 1: doanh nghiệp X ở nước ngoài ký hợp đồng mua vải của doanh nghiệp Việt Nam A, đồng thời chỉ định doanh nghiệp A giao hàng cho doanh nghiệp Việt Nam B (theo hình thức xuất nhập khẩu tại chỗ theo quy định của pháp luật). Doanh nghiệp X có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng ký giữa doanh nghiệp X với doanh nghiệp B (doanh nghiệp X bán vải cho doanh nghiệp B).

Trong trường hợp này, doanh nghiệp X là đối tượng áp dụng theo quy định tại Thông tư này và doanh nghiệp B có trách nhiệm khai, khấu trừ và nộp thuế thay cho doanh nghiệp X theo quy định tại Thông tư này.

- Trường hợp 2: doanh nghiệp Y ở nước ngoài ký hợp đồng gia công vải với doanh nghiệp Việt Nam C, đồng thời chỉ định doanh nghiệp C giao hàng cho doanh nghiệp Việt Nam D để tiếp tục sản xuất (theo hình thức xuất nhập khẩu tại chỗ theo quy định của pháp luật). Doanh nghiệp Y có thu nhập phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng ký giữa doanh nghiệp Y với doanh nghiệp D (doanh nghiệp Y bán hàng cho doanh nghiệp D).

Trong trường hợp này, doanh nghiệp Y là đối tượng áp dụng theo quy định tại Thông tư này và doanh nghiệp D có trách nhiệm khai, khấu trừ và nộp thuế thay cho doanh nghiệp Y theo quy định tại Thông tư này.

- Trường hợp 3: doanh nghiệp Z ở nước ngoài ký hợp đồng gia công hoặc mua vải với doanh nghiệp Việt Nam E (doanh nghiệp Z cung cấp nguyên vật liệu cho doanh nghiệp E để gia công) và chỉ định doanh nghiệp E giao hàng cho doanh nghiệp Việt Nam G để tiếp tục gia công (theo hình thức gia công xuất nhập khẩu tại chỗ theo quy định của pháp luật). Sau khi gia công xong, Doanh nghiệp G xuất trả lại hàng cho Doanh nghiệp Z và Doanh nghiệp Z phải thanh toán tiền gia công cho doanh nghiệp G theo hợp đồng gia công.

Trong trường hợp này, doanh nghiệp Z không thuộc đối tượng áp dụng theo quy định tại Thông tư này.

3. Tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh phân phối hàng hóa, cung cấp dịch vụ tại Việt Nam trong đó tổ chức, cá nhân nước ngoài vẫn là chủ sở hữu đối với hàng hóa giao cho tổ chức Việt Nam hoặc chịu trách nhiệm về chi phí phân phối, quảng cáo, tiếp thị, chất lượng dịch vụ, chất lượng hàng hóa giao cho tổ chức Việt Nam hoặc ấn định giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ; bao gồm cả trường hợp uỷ quyền hoặc thuê một số tổ chức Việt Nam thực hiện một phần dịch vụ phân phối, dịch vụ khác liên quan đến việc bán hàng hóa tại Việt Nam.

Ví dụ 2:

Doanh nghiệp A ở nước ngoài giao hàng hóa hoặc uỷ quyền thực hiện một số dịch vụ liên quan (như vận chuyển, phân phối, tiếp thị, quảng cáo...) cho Doanh nghiệp Việt Nam B trong đó Doanh nghiệp A là chủ sở hữu đối với hàng hóa giao cho Doanh nghiệp B hoặc Doanh nghiệp A chịu trách nhiệm về chi phí, chất lượng dịch vụ, chất lượng hàng hóa giao cho Doanh nghiệp B hoặc Doanh nghiệp A ấn định giá bán hàng hóa hoặc giá cung ứng dịch vụ thì Doanh nghiệp A là đối tượng áp dụng theo quy định tại Thông tư này.

4. Tổ chức, cá nhân nước ngoài thông qua tổ chức, cá nhân Việt Nam để thực hiện việc đàm phán, ký kết các hợp đồng đứng tên tổ chức, cá nhân nước ngoài.

5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện quyền xuất khẩu, quyền nhập khẩu, phân phối tại thị trường Việt Nam, mua hàng hóa để xuất khẩu, bán hàng hóa cho thương nhân Việt Nam theo pháp luật về thương mại.

Từ quy định trên, chỉ cần doanh nghiệp nước ngoài phát sinh thu nhập tại Việt Nam từ hợp đồng ký với tổ chức, cá nhân trong nước, thì sẽ thuộc đối tượng áp dụng thuế nhà thầu, bất kể họ có hay không có văn phòng đại diện hay cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Trường hợp công ty nước ngoài ký hợp đồng bản quyền với một doanh nghiệp Việt Nam – ví dụ như cấp quyền sử dụng trò chơi, phần mềm hay giao diện game – thì khoản tiền bản quyền mà họ nhận được sẽ bị coi là thu nhập phát sinh tại Việt Nam. Do đó, công ty nước ngoài phải kê khai và nộp thuế nhà thầu, và việc nộp này thường do đối tác phía Việt Nam đứng ra khấu trừ, khai thay và nộp hộ theo đúng thủ tục thuế.

Việc không có văn phòng đại diện tại Việt Nam không đồng nghĩa với việc được miễn thuế. Miễn là có phát sinh dòng tiền từ thị trường Việt Nam – thông qua hợp đồng hoặc thỏa thuận rõ ràng – thì nghĩa vụ thuế vẫn được xác lập theo quy định tại Thông tư 103.

Tình huống giả định:

Cục Thuế Hà Nội truy thu thuế nhà thầu với doanh nghiệp nước ngoài thu tiền bản quyền game

Tháng 8/2025, Công ty TNHH Trò Chơi Sáng Tạo Việt (V-Creative Games) ký hợp đồng với Công ty Galaxy Studio Corp. (trụ sở tại Singapore) để phân phối một trò chơi điện tử trên nền tảng mobile tại thị trường Việt Nam. Theo thỏa thuận, Galaxy Studio giữ quyền sở hữu trò chơi, còn V-Creative Games được phép phát hành và quảng bá sản phẩm tại Việt Nam. Mỗi tháng, công ty Việt Nam sẽ thanh toán 15% doanh thu từ người chơi Việt cho Galaxy như một khoản phí bản quyền.

Sau 3 tháng hoạt động, khi rà soát hồ sơ thanh toán ngoại tệ của doanh nghiệp, Cục Thuế TP. Hà Nội phát hiện phía công ty Việt Nam không kê khai và nộp thuế nhà thầu thay cho đối tác nước ngoài, mặc dù số tiền bản quyền đã lên tới hơn 5 tỷ đồng.

Trong buổi làm việc, đại diện Cục Thuế khẳng định rằng Galaxy Studio là đối tượng thuộc diện áp dụng thuế nhà thầu, vì đã phát sinh thu nhập từ bản quyền tại Việt Nam, trên cơ sở hợp đồng giữa một tổ chức nước ngoài và doanh nghiệp Việt Nam. Căn cứ Điều 1 Thông tư 103, các doanh nghiệp nước ngoài thu tiền từ bản quyền – dù không có cơ sở thường trú tại Việt Nam – nhưng có thu nhập phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam, đều phải chịu thuế nhà thầu.

Cục Thuế yêu cầu Công ty V-Creative Games phải khai, khấu trừ và nộp thuế nhà thầu thay cho Galaxy Studio, đồng thời truy thu số tiền thuế chưa nộp và phạt chậm nộp theo quy định. Sau đó, doanh nghiệp buộc phải rà soát lại toàn bộ hợp đồng phân phối game với các đối tác nước ngoài khác để bảo đảm tuân thủ đúng quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)

3. Các loại thuế áp dụng đối với tiền bản quyền game là gì?

Các loại thuế áp dụng đối với tiền bản quyền game là gì?

Trả lời vắn tắt: Tùy vào loại hình nhà thầu, doanh nghiệp nước ngoài sẽ chịu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc thuế thu nhập cá nhân.

Theo quy định tại Điều 5 Thông tư 103/2014/TT-BTC:

Thông tư 103/2014/TT-BTC

Điều 5. Các loại thuế áp dụng

1. Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài là tổ chức kinh doanh thực hiện nghĩa vụ thuế giá trị gia tăng (GTGT), thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) theo hướng dẫn tại Thông tư này.

2. Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài là cá nhân nước ngoài kinh doanh thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT theo hướng dẫn tại Thông tư này, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) theo pháp luật về thuế TNCN.

3. Đối với các loại thuế, phí và lệ phí khác, Nhà thầu nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài thực hiện theo các văn bản pháp luật về thuế, phí và lệ phí khác hiện hành.

- Với tổ chức nước ngoài (doanh nghiệp), nghĩa vụ thuế gồm: Thuế giá trị gia tăng (GTGT) theo tỷ lệ phần trăm tính trên doanh thu; Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) theo tỷ lệ phần trăm trên thu nhập chịu thuế.

- Với cá nhân kinh doanh, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) được áp dụng thay vì thuế TNDN.
Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể có thể áp dụng thêm các loại phí, lệ phí khác theo quy định pháp luật.

Tình huống giả định:

Tòa án Hà Nội bác đơn khiếu kiện, xác định tiền bản quyền game phải chịu cả thuế GTGT và TNDN

Tháng 10/2025, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội thụ lý vụ án hành chính giữa Công ty TNHH Công Nghệ GameZone Việt Nam và Cục Thuế TP. Hà Nội, liên quan đến việc truy thu thuế đối với khoản tiền bản quyền game mà doanh nghiệp này đã thanh toán cho một đối tác nước ngoài. Cụ thể, GameZone đã ký hợp đồng với StarOne Entertainment Ltd. (Mỹ) để khai thác độc quyền một tựa game trên nền tảng di động tại Việt Nam. Theo thỏa thuận, GameZone phải trả một khoản bản quyền cố định và chia sẻ thêm 20% doanh thu từ thị trường Việt Nam.

Trong quá trình thanh tra thuế định kỳ, Cục Thuế phát hiện GameZone chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế nhà thầu. Theo cơ quan thuế, khoản tiền bản quyền trả cho StarOne là thu nhập phát sinh tại Việt Nam và thuộc diện chịu thuế. Tuy nhiên, GameZone chỉ nộp một phần thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), mà không kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng (GTGT) trên phần dịch vụ bản quyền nhập khẩu.

Phía GameZone lập luận rằng vì StarOne không có hoạt động trực tiếp tại Việt Nam nên không phải chịu thuế GTGT. Tuy nhiên, Cục Thuế viện dẫn Điều 5 Thông tư 103/2014/TT-BTC, theo đó tổ chức nước ngoài nhận thu nhập từ bản quyền tại Việt Nam phải chịu đồng thời thuế GTGT và thuế TNDN, bất kể có hiện diện thương mại hay không. Doanh nghiệp Việt Nam có nghĩa vụ khấu trừ và nộp thay theo đúng quy định.

Tòa án sau khi xem xét đã tuyên bác đơn khiếu kiện của GameZone, đồng thời khẳng định cơ quan thuế xử lý đúng pháp luật. Vụ việc cho thấy rõ: tiền bản quyền game là khoản chịu thuế nhà thầu đầy đủ với hai loại thuế chính – GTGT và TNDN – khi trả cho tổ chức nước ngoài, dù tổ chức đó không đặt văn phòng tại Việt Nam.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)

 

4. Kết luận

Tiền thu được từ bản quyền game tại Việt Nam được pháp luật Việt Nam xác định là thu nhập từ tiền bản quyền. Nếu doanh nghiệp nước ngoài phát sinh khoản thu nhập này mà không đặt văn phòng hoặc chi nhánh tại Việt Nam tại Việt Nam thì vẫn thuộc diện chịu thuế nhà thầu. Các loại thuế phổ biến áp dụng là thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp (hoặc thu nhập cá nhân đối với cá nhân).

Tố Uyên
Biên tập

Là một người yêu thích phân tích các vụ việc pháp lý và luôn cập nhật các vấn đề thời sự pháp luật, Uyên luôn tìm kiếm sự cân bằng giữa độ chính xác và tính truyền cảm trong từng sản phẩm biên tập. Đố...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Choose your rating score:
Name (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Rating content