Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án hoặc quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, đánh dấu việc chấm dứt quyền, nghĩa vụ vợ chồng.
Ly hôn không chỉ là việc chấm dứt mối quan hệ tình cảm giữa vợ chồng mà còn kéo theo hệ quả pháp lý về tài sản, con cái và nghĩa vụ dân sự. Việc xác định chính xác thời điểm hôn nhân chấm dứt là cơ sở quan trọng để xác định quyền, nghĩa vụ của mỗi bên. Cùng với đó, nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn được pháp luật quy định cụ thể nhằm bảo đảm công bằng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên.
1. Quan hệ hôn nhân chấm dứt từ thời điểm nào?
Khoản 1 Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Điều 57. Thời điểm chấm dứt hôn nhân và trách nhiệm gửi bản án, quyết định ly hôn
1. Quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
...
Pháp luật xác định rõ, hôn nhân chỉ thật sự chấm dứt khi Tòa án ban hành bản án hoặc quyết định ly hôn có hiệu lực. Trước thời điểm đó, hai người vẫn được coi là vợ chồng hợp pháp, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ nhân thân, tài sản, cấp dưỡng. Việc xác định đúng thời điểm chấm dứt giúp bảo đảm rõ ràng trong việc chia tài sản, tính nghĩa vụ nợ chung và giải quyết các quyền lợi phát sinh sau hôn nhân.
Tình huống giả định
-
Bối cảnh vụ việc
Tháng 4/2025, bà Phạm Thị Yến và ông Nguyễn Văn Quang, cư trú tại Thành phố Đà Nẵng, nộp đơn thuận tình ly hôn tại Tòa án nhân dân khu vực Đà Nẵng. Bản án ly hôn được tuyên ngày 12/5/2025. -
Quá trình phát sinh
Ngày 18/5/2025, ông Quang ký hợp đồng mua bán nhà đứng tên cá nhân. Bà Yến cho rằng căn nhà vẫn là tài sản chung vì hôn nhân chưa chấm dứt hoàn toàn. -
Kết quả pháp lý
Tòa án xác định bản án ly hôn chỉ có hiệu lực từ ngày 27/5/2025 (khi hết thời hạn kháng cáo), nên giao dịch của ông Quang trước đó vẫn trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tài sản mua trong thời gian này vẫn được tính là tài sản chung của vợ chồng.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn là gì?
Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.
Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn dựa trên hai yếu tố: sự thỏa thuận và sự công bằng. Nếu vợ chồng thống nhất được cách chia, Tòa án sẽ công nhận thỏa thuận đó. Nếu không, Tòa án chia đôi nhưng có xem xét công sức, hoàn cảnh và lỗi của mỗi bên. Tài sản riêng vẫn thuộc quyền sở hữu riêng, trừ khi đã nhập vào tài sản chung. Quy định này nhằm đảm bảo công bằng, tôn trọng đóng góp của cả hai, đặc biệt bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên hoặc không có khả năng lao động.
Tình huống giả định
-
Bối cảnh vụ việc
Tháng 5/2025, ông Đặng Văn Tân và bà Lê Ngọc Mai, cư trú tại Thành phố Cần Thơ, ly hôn sau 10 năm chung sống. Hai người có khối tài sản chung gồm nhà ở và cửa hàng kinh doanh. -
Quá trình xem xét
Bà Mai yêu cầu chia đôi tài sản, trong khi ông Tân cho rằng mình là người tạo lập chính khối tài sản nên muốn được chia phần lớn hơn. Quá trình xét xử cho thấy bà Mai tuy không trực tiếp kinh doanh nhưng toàn bộ thời gian chăm sóc con và lo việc gia đình. -
Kết quả pháp lý
Căn cứ khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án nhân dân khu vực Cần Thơ xác định công sức đóng góp của bà Mai được coi như lao động có thu nhập, nên chia tài sản theo tỷ lệ 50/50. Đồng thời, Tòa giao cửa hàng kinh doanh cho ông Tân quản lý nhưng buộc thanh toán chênh lệch cho bà Mai.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
3. Kết luận
Quan hệ hôn nhân chỉ chính thức chấm dứt khi bản án hoặc quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật. Sau thời điểm đó, các quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng không còn ràng buộc, trừ trách nhiệm cấp dưỡng hoặc nghĩa vụ nuôi con. Việc chia tài sản khi ly hôn phải dựa trên nguyên tắc thỏa thuận, công bằng và bảo vệ người yếu thế, đảm bảo mọi quyết định của Tòa án đều hướng tới sự ổn định, nhân văn và công lý trong đời sống hôn nhân.