Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là khoảng thời gian mà sau khi hết hạn, người phạm tội sẽ không còn bị xử lý hình sự nữa. Việc xác định thời hiệu phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự. Pháp luật cũng quy định một số trường hợp đặc biệt không áp dụng thời hiệu, dù thời gian có trôi qua bao lâu.
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định như thế nào?
Khoản 1 Điều 9 và Điều 27 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) quy định như sau:
Điều 9. Phân loại tội phạm
1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 07 năm đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình....
Điều 27. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
Dựa vào khung hình phạt cao nhất mà pháp luật quy định cho từng tội danh, cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xác định loại tội phạm tương ứng. Từ đó, đối chiếu với quy định tại Điều 27 Bộ luật Hình sự để áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể:
-
Tội phạm ít nghiêm trọng: thời hiệu là 5 năm
-
Tội phạm nghiêm trọng: thời hiệu là 10 năm
-
Tội phạm rất nghiêm trọng: thời hiệu là 15 năm
-
Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: thời hiệu là 20 năm
Việc phân loại rõ ràng này nhằm đảm bảo tính công bằng và hợp lý khi xử lý các hành vi phạm tội, đồng thời hạn chế việc truy cứu trách nhiệm hình sự sau thời gian dài nếu hành vi không còn gây nguy hiểm cho xã hội.
Tình huống giả định
Năm 2012, ông Lê Quốc Cường (trú tại Đồng Nai) bị phát hiện đã lập khống hồ sơ vay vốn để chiếm đoạt hơn 90 triệu đồng từ một quỹ hỗ trợ nông dân. Vụ việc bị đình lại do thiếu chứng cứ và người này rời khỏi địa phương. Đến năm 2024, khi ông Cường quay về, cơ quan chức năng phục hồi điều tra và xác định tội danh là “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với khung hình phạt cao nhất 03 năm tù.
Căn cứ vào Điều 9 Bộ luật Hình sự, đây là tội phạm ít nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu là 5 năm. Tính đến thời điểm 2024, thời hiệu đã hết, nên ông Cường không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Những trường hợp nào không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự?
Điều 28 Bộ luật Hình sự 2015 quy định như sau:
Điều 28. Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 27 của Bộ luật này đối với các tội phạm sau đây:
1. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật này.
2. Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật này.
3. Tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 của Bộ luật này; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của Bộ luật này.
Theo quy định trên, nếu người thực hiện hành vi phạm tội thuộc một trong các nhóm tội nêu trên, thì dù thời gian có trôi qua bao lâu, họ vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia hoặc làm suy yếu sự trong sạch của bộ máy công quyền, nên không được hưởng miễn trừ thời gian.
Chính sách này nhằm bảo đảm mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhất là hành vi tham nhũng nghiêm trọng hay phản bội tổ quốc, đều phải được xử lý nghiêm minh, không bị bỏ lọt chỉ vì lý do thời gian.
Tình huống giả định
Ông Nguyễn Văn Khôi, nguyên Giám đốc Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng tỉnh Bắc Giang, bị nghi nhận hối lộ hơn 3 tỷ đồng từ một doanh nghiệp thi công để tạo điều kiện trúng thầu năm 2003. Sau đó ông Khôi nghỉ hưu và vụ việc không bị điều tra do thiếu chứng cứ cụ thể.
Đến năm 2025, khi doanh nghiệp liên quan bị thanh tra toàn diện, các tài liệu nội bộ và lời khai mới cho thấy rõ vai trò của ông Khôi trong vụ việc. Dù hành vi đã xảy ra hơn 20 năm, cơ quan điều tra vẫn khởi tố vì số tiền hối lộ vượt 1 tỷ đồng, thuộc khoản 4 Điều 354 Bộ luật Hình sự. Theo Điều 28, đây là tội nhận hối lộ đặc biệt nghiêm trọng nên không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định dựa trên mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, căn cứ vào khung hình phạt tối đa của tội danh đó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt khi tội được quy định ở cấp độ nghiêm trọng, thời hiệu sẽ không được áp dụng.