Tài sản trí tuệ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong sáng tạo và kinh doanh. Những sản phẩm như tác phẩm nghệ thuật, sáng chế hay nhãn hiệu đều có thể tạo ra giá trị lớn về vật chất cho chủ sở hữu của chúng. Vì vậy, việc hiểu rõ cách xác lập quyền là cách tốt nhất để bảo vệ thành quả của mình tạo ra.
1. Quyền sở hữu trí tuệ là gì?
Quy định này được nêu cụ thể tại khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 như sau:
Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
...
Quyền sở hữu trí tuệ là một dạng quyền tài sản đặc biệt, phản ánh sự ghi nhận và bảo hộ của pháp luật đối với những thành quả trí tuệ của con người. Khác với tài sản hữu hình như đất đai, xe cộ hay nhà ở, tài sản trí tuệ không có hình dạng cụ thể, nhưng lại mang giá trị kinh tế và giá trị sử dụng rất lớn trong nhiều lĩnh vực đời sống từ văn hóa, nghệ thuật, đến thương mại và công nghệ. Khi một cá nhân hoặc tổ chức tạo ra hoặc sở hữu một tác phẩm, sáng chế, nhãn hiệu hay giống cây trồng, họ có quyền kiểm soát việc sử dụng tài sản đó, được độc quyền khai thác trong thời hạn bảo hộ, và được pháp luật bảo vệ nếu có hành vi xâm phạm xảy ra.
Theo quy định tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019), quyền sở hữu trí tuệ được chia thành ba nhóm lớn, gồm: quyền tác giả và quyền liên quan; quyền sở hữu công nghiệp; và quyền đối với giống cây trồng. Mỗi nhóm bao gồm những đối tượng pháp lý cụ thể, được xác lập và bảo hộ bằng những cơ chế khác nhau.
Tình huống giả định
- Chị Hương là tác giả của bộ truyện tranh thiếu nhi đang được phát hành tại TP. Đà Nẵng
Vào năm 2024, toàn bộ nội dung và hình vẽ do chị Hương tự tay thực hiện, tên tác giả là chị Hương được in rõ ràng trên bìa truyện và các kênh phát hành. - Ngoài tác phẩm truyện, chị còn thiết kế nhân vật linh vật và logo riêng
Ngoài việc tạo ra tác phẩm truyện, chị còn thiết kế nhân vật linh vật và logo riêng. Sau đó, chị nộp hồ sơ đăng ký nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp tại Cục Sở hữu trí tuệ để bảo hộ tài sản trí tuệ bổ sung. - Chị Hương được xác lập quyền tác giả đối với truyện tranh
Chị Hương được xác lập quyền tác giả đối với truyện tranh ngay khi tác phẩm được thể hiện dưới hình thức vật chất. Đồng thời, các quyền liên quan đến nhãn hiệu và kiểu dáng được xác lập thông qua văn bằng bảo hộ do cơ quan có thẩm quyền cấp. - Chị Hương được quyền sử dụng các tác phẩm do mình tạo ra
Sau khi được xác lập quyền tác giả, chị Hương được quyền sử dụng và tạo ra nguồn thu nhập từ các quyền sở hữu trí tuệ của mình.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ
Quy định này được nêu cụ thể tại Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 như sau:
Điều 6. Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ
1. Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
2. Quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả.
3. Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:
a) Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký;
b) Quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó;
c) Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó;
d) Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh.
4. Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này.
Việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ không diễn ra theo một nguyên tắc chung, mà phụ thuộc vào từng nhóm quyền cụ thể theo quy định của pháp luật. Đối với quyền tác giả, pháp luật Việt Nam áp dụng cơ chế “tự động phát sinh” – tức là quyền của tác giả được hình thành ngay từ thời điểm tác phẩm được sáng tạo và thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không cần đăng ký.
Ngược lại, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng lại yêu cầu thủ tục đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ mới được xác lập. Riêng nhãn hiệu nổi tiếng và tên thương mại thì có thể được bảo hộ trên cơ sở sử dụng thực tế mà không cần đăng ký. Còn bí mật kinh doanh và hành vi chống cạnh tranh không lành mạnh thì được xác lập qua việc tổ chức, cá nhân thực tế sở hữu bí mật đó một cách hợp pháp và có biện pháp giữ bí mật, hoặc có hành vi tham gia thị trường phù hợp với pháp luật cạnh tranh.
Tình huống giả định
- Anh Dũng phát triển một phần mềm kế toán đơn giản để phục vụ công việc tại nhà riêng ở TP. Cần Thơ
Phần mềm do anh Dũng tự viết, có mã nguồn rõ ràng và được lưu trữ trên máy tính cá nhân từ đầu năm 2024. - Anh Dũng không công bố phần mềm nhưng vẫn được công nhận quyền tác giả
Vì phần mềm đã được định hình dưới dạng vật chất, quyền tác giả của anh được xác lập mà không cần đăng ký. - Anh Dũng nộp hồ sơ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu cho tên phần mềm tại Cục Sở hữu trí tuệ
Vài tháng sau, anh đã sáng tạo nên nhãn hiệu riêng cho sản phẩm của mình. Với nhãn hiệu này, quyền chỉ được pháp luật công nhận khi có văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước cấp. Vì vậy anh quyết định đi đăng ký bảo hộ cho nhãn hiệu - Anh Dũng hiện đang sở hữu đồng thời hai loại tài sản trí tuệ với hai cơ chế xác lập khác nhau
Một quyền phát sinh tự động từ thời điểm tác phẩm được hình thành đó chính là phần mềm do anh Dũng viết. Một quyền phải qua thủ tục đăng ký mới có hiệu lực đó là nhãn hiệu do anh tạo ra.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
3. Kết luận
Quyền sở hữu trí tuệ là một dạng quyền tài sản đặc biệt, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ nhằm khuyến khích sáng tạo, bảo vệ thành quả lao động trí óc của cá nhân, tổ chức. Tuỳ từng loại tài sản trí tuệ mà quyền được xác lập theo cơ chế khác nhau, có loại phát sinh ngay khi được sáng tạo, có loại phải trải qua thủ tục đăng ký.