Nuôi trồng thủy sản thương phẩm nước ngọt là hoạt động nuôi thủy sản trong nước ngọt có độ mặn dưới 0,5‰ và phạm vi giao khu vực biển tùy theo thẩm quyền từng cấp quản lý.
Hoạt động nuôi trồng thủy sản giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn thực phẩm, tạo việc làm và thúc đẩy kinh tế nông thôn. Trong đó, nuôi trồng thủy sản thương phẩm nước ngọt là hình thức phổ biến, gắn liền với nhiều hộ dân sinh sống tại vùng sông hồ, ao đầm. Bên cạnh việc xác định rõ khái niệm về hoạt động này, pháp luật cũng quy định cụ thể phạm vi giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản, giúp quản lý và sử dụng hợp lý tài nguyên mặt nước.
Nuôi trồng thủy sản thương phẩm nước ngọt là gì?

Căn cứ theo tiểu mục 3.1 Mục 3 Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13952:2024 – Nước nuôi trồng thủy sản: Nước ngọt Yêu cầu chất lượng, quy định như sau:
Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13952:2024
3. Thuật ngữ, định nghĩa
3.1. Nuôi trồng thủy sản thương phẩm nước ngọt (Commercial freshwater aquaculture)
Hoạt động kinh tế khai thác con giống trong vùng nước ngọt tự nhiên, ương nuôi các loài thủy sản (nơi sinh trưởng cuối cùng của chúng là trong nước ngọt) để chúng đạt tới kích cỡ thương phẩm, ở đây, nước ngọt được hiểu là môi trường nước có độ mặn thấp hơn 0,5‰....
Có thể hiểu rằng nuôi trồng thủy sản thương phẩm nước ngọt không chỉ bao gồm việc nuôi cá trong ao, hồ hoặc sông suối mà còn mở rộng đến các hình thức nuôi có kiểm soát nhằm đạt giá trị thương phẩm cao. Đặc điểm nổi bật của mô hình này là sử dụng nguồn nước có độ mặn thấp, giúp phù hợp cho các loài như cá rô phi, cá trắm, cá chép, cá lăng hay tôm càng xanh.
Tình huống giả định

Mô hình nuôi cá rô phi thương phẩm tại Hòa Bình đạt chứng nhận tiêu chuẩn nước ngọt
-
Hộ nuôi đầu tư hệ thống ao nuôi theo tiêu chuẩn nước ngọt
Gia đình ông Phạm Văn Dũng, đầu tư xây dựng khu ao nuôi cá rô phi với nguồn nước lấy từ suối tự nhiên có độ mặn chỉ 0,1‰. Ông Dũng áp dụng quy trình giám sát chất lượng nước định kỳ theo tiêu chuẩn TCVN 13952:2024. -
Kết quả kiểm định và chứng nhận đạt yêu cầu
Sau 6 tháng nuôi, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, đánh giá và xác nhận mô hình đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn “nuôi trồng thủy sản thương phẩm nước ngọt”. Sản phẩm cá rô phi được ký hợp đồng tiêu thụ với doanh nghiệp chế biến thủy sản trong khu vực. -
Mô hình được nhân rộng tại địa phương
Từ thành công của ông Dũng, nhiều hộ dân lân cận bắt đầu chuyển đổi hình thức nuôi, áp dụng quy trình kiểm soát độ mặn và chất lượng nước theo tiêu chuẩn quốc gia, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái vùng lòng hồ.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Phạm vi giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản được tính như thế nào?

Căn cứ theo điểm a khoản 2 Điều 44 Luật Thủy sản 2017, quy định:
Điều 44. Giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản
1. Việc giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản phải căn cứ quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch tỉnh và quy định của pháp luật về biển, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
2. Thẩm quyền giao khu vực biển không thu tiền sử dụng để nuôi trồng thủy sản như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp huyện giao khu vực biển cho cá nhân Việt Nam có hồ sơ đăng ký khi cá nhân đó phải chuyển đổi từ nghề khai thác ven bờ sang nuôi trồng thủy sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc thường trú trên địa bàn mà nguồn sống chủ yếu dựa vào thu nhập từ nuôi trồng thủy sản được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú xác nhận. Phạm vi giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản tính từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm đến 03 hải lý thuộc phạm vi quản lý;
b) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ nuôi trồng thủy sản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Phạm vi giao khu vực biển tính từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm đến 06 hải lý thuộc phạm vi quản lý;
c) Bộ Tài nguyên và Môi trường giao khu vực biển cho tổ chức, cá nhân Việt Nam thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ nuôi trồng thủy sản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Phạm vi giao khu vực biển ngoài 06 hải lý, khu vực biển nằm đồng thời trong và ngoài 06 hải lý tính từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm; khu vực biển giáp ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương....
Phạm vi giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản phụ thuộc vào phạm vi quản lý hành chính và thẩm quyền của từng cấp chính quyền. Quy định này nhằm đảm bảo việc phân bổ hợp lý tài nguyên biển, đồng thời phục vụ cho công tác quản lý, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngành thủy sản ven biển.
Tình huống giả định

UBND giao khu vực biển cho hộ dân nuôi cá bớp thương phẩm
-
Người dân xin giao khu vực biển nuôi cá bớp
Ông Lê Văn Bình, nộp hồ sơ xin giao khu vực biển để chuyển đổi từ nghề khai thác ven bờ sang nuôi cá bớp thương phẩm. Hồ sơ của ông được UBND xác nhận nguồn sống chủ yếu dựa vào nuôi trồng thủy sản. -
UBND xem xét và ra quyết định giao khu vực biển
Căn cứ hồ sơ hợp lệ, UBND ban hành quyết định giao khu vực biển cách bờ 2 hải lý, thuộc phạm vi quản lý của huyện, để ông Bình triển khai nuôi trồng thủy sản. Khu vực này được xác định dựa trên đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm theo quy định pháp luật. -
Hộ dân triển khai mô hình và tuân thủ quy định môi trường
Sau khi được giao khu vực biển, ông Bình đầu tư hệ thống lồng bè, cam kết thực hiện đúng yêu cầu bảo vệ môi trường, an toàn kỹ thuật và báo cáo định kỳ cho cơ quan quản lý chuyên ngành thủy sản địa phương.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Hoạt động nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản thương phẩm nước ngọt, giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và bảo vệ nguồn nước. Về khái niệm, đây là hoạt động khai thác, ương nuôi thủy sản trong môi trường nước ngọt có độ mặn dưới 0,5‰ để đạt kích cỡ thương phẩm. Về phạm vi giao khu vực biển, pháp luật quy định rõ thẩm quyền của từng cấp, tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi trường dựa trên khoảng cách từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm.





