Từ ngày 01/7/2025, Luật Bảo hiểm xã hội 2024 chính thức có hiệu lực, mang theo hàng loạt điều chỉnh quan trọng so với Luật BHXH 2014 nhằm thích ứng với nhu cầu và thực tiễn của thị trường lao động hiện đại. Một số điểm nổi bật bao gồm: rút ngắn thời hạn hợp đồng tối thiểu để tham gia BHXH bắt buộc xuống còn 01 tháng, bổ sung chế độ trợ cấp hưu trí xã hội cho người cao tuổi chưa từng đóng BHXH, mở rộng đáng kể nhóm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, và thêm quyền lợi hưởng chế độ thai sản khi điều trị vô sinh. Trong bài viết này, Trợ Lý Luật sẽ phân tích những điểm mới tiêu biểu của Luật BHXH 2024 dưới góc nhìn pháp lý nhằm giúp người đọc nắm bắt rõ hơn về các thay đổi có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi an sinh xã hội.
1. Rút ngắn thời hạn hợp đồng tối thiểu để tham gia BHXH bắt buộc xuống còn 01 tháng
Một trong những thay đổi đáng chú ý của Luật Bảo hiểm xã hội 2024 là việc rút ngắn điều kiện về thời hạn hợp đồng lao động để người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Trong khi Luật BHXH 2014 quy định người lao động phải ký hợp đồng có thời hạn từ đủ 03 tháng trở lên, thì Luật mới đã giảm mốc này xuống còn từ đủ 01 tháng trở lên, qua đó giúp tăng độ bao phủ bảo hiểm xã hội, đặc biệt đối với nhóm lao động làm việc ngắn hạn, thời vụ.
Luật BHXH 2014 quy định như sau:
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
...
Luật BHXH 2024 đã có sự thay đổi như sau:
Điều 2. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện
1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên, kể cả trường hợp người lao động và người sử dụng lao động thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên;
...
So với quy định cũ, quy định mới có hai điểm đáng lưu ý:
-
Giảm điều kiện về thời hạn hợp đồng từ 03 tháng xuống 01 tháng, qua đó gộp lại các nhóm hợp đồng ngắn hạn thành một nhóm duy nhất, dễ quản lý hơn.
-
Mở rộng cách hiểu về hợp đồng lao động: không chỉ là hợp đồng đúng tên gọi, mà bất kỳ thỏa thuận nào có bản chất lao động, có tiền công, có sự quản lý cũng đều thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH.
Việc sửa đổi này mang lại lợi ích rõ rệt: hàng triệu lao động hợp đồng thời vụ ngắn ngày, nhân sự part-time, lao động giao kết hợp đồng linh hoạt trong các lĩnh vực như logistics, dịch vụ ăn uống, bán lẻ… sẽ được đưa vào mạng lưới bảo hiểm xã hội, từ đó giúp giảm thiểu rủi ro khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc về già. Đồng thời, nó cũng góp phần ngăn chặn tình trạng doanh nghiệp chia nhỏ hợp đồng để trốn nghĩa vụ BHXH – một thực tế diễn ra khá phổ biến trong thời gian qua.
2. Bổ sung chế độ trợ cấp hưu trí xã hội cho người cao tuổi chưa từng tham gia BHXH
Luật BHXH 2024 còn bổ sung một điểm nhân văn: chế độ trợ cấp hưu trí xã hội cho người cao tuổi không có lương hưu hoặc trợ cấp BHXH hằng tháng. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo an sinh cho nhóm người cao tuổi yếu thế, đặc biệt là những người chưa từng hoặc không đủ điều kiện tham gia BHXH trong suốt quá trình lao động.
Luật BHXH 2024 quy định như sau:
Điều 21. Đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội
1. Công dân Việt Nam được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Từ đủ 75 tuổi trở lên;
b) Không hưởng lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trừ trường hợp khác theo quy định của Chính phủ;
c) Có văn bản đề nghị hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.2. Công dân Việt Nam từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đáp ứng đủ điều kiện quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
...
So với Luật BHXH 2014 – vốn chỉ quy định chế độ hưu trí cho người đã từng tham gia và đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH, thì quy định mới mở ra chính sách hỗ trợ riêng cho những người không nằm trong hệ thống bảo hiểm. Cụ thể:
-
Từ đủ 75 tuổi trở lên, không hưởng lương hưu hay trợ cấp BHXH, có thể được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.
-
Người từ 70 đến dưới 75 tuổi, nếu thuộc hộ nghèo/cận nghèo và không có lương hưu, cũng có thể được xem xét hưởng chế độ này.
Chính sách này thể hiện rõ tinh thần an sinh xã hội toàn dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Bên cạnh đó, khi chế độ được quy định trực tiếp trong luật và thực hiện theo quy trình do trung ương quản lý, địa phương sẽ bớt áp lực hơn trong việc tự cân đối ngân sách cho người cao tuổi.
Ngoài ra, việc quy định thêm đối tượng 70–75 tuổi thuộc hộ nghèo, cận nghèo cho thấy sự linh hoạt trong chính sách – vừa bảo đảm tính nhân đạo, vừa có tiêu chí tài chính rõ ràng để tránh lạm dụng. Trong bối cảnh tốc độ già hóa dân số tại Việt Nam ngày càng cao, quy định này được kỳ vọng sẽ giảm thiểu bất bình đẳng giữa các nhóm người cao tuổi, đặc biệt tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa – nơi mà nhiều người chưa từng tiếp cận được với bảo hiểm xã hội chính thức.
3. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Một điểm mới đáng chú ý trong Luật Bảo hiểm xã hội 2024 là việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Luật mới đã bổ sung thêm nhiều nhóm người lao động và chức danh mà trước đây chưa được đưa vào hệ thống. So với Luật BHXH 2014, danh sách này nay bao gồm cả dân quân thường trực, vợ hoặc chồng của cán bộ ngoại giao đi công tác nhiệm kỳ, chủ hộ kinh doanh có đăng ký, cùng với người làm việc không trọn thời gian nhưng có thu nhập từ mức sàn trở lên.
Luật BHXH 2014 quy định như sau:
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:
…
h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;
i) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
Trong khi đó, Luật BHXH 2024 đã mở rộng hơn với danh sách như sau:
Điều 2. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện
1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm:
…
e) Dân quân thường trực;
h) Vợ hoặc chồng không hưởng lương từ ngân sách nhà nước được cử đi công tác nhiệm kỳ cùng thành viên cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài được hưởng chế độ sinh hoạt phí;
m) Chủ hộ kinh doanh của hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tham gia theo quy định của Chính phủ;
l) Đối tượng quy định tại điểm a khoản này làm việc không trọn thời gian, có tiền lương trong tháng bằng hoặc cao hơn tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp nhất;
Quy định mới trong Luật Bảo hiểm xã hội 2024 cho thấy phạm vi bảo hiểm xã hội bắt buộc không chỉ mở rộng về số lượng người tham gia, mà còn phản ánh rõ sự thay đổi trong cách nhìn nhận về quan hệ lao động ngày nay – đa dạng, linh hoạt hơn và không còn bó hẹp trong khuôn khổ lao động truyền thống.
Một số điểm nổi bật:
-
Chủ hộ kinh doanh, nếu có đăng ký kinh doanh, nay được đưa vào hệ thống BHXH bắt buộc, khắc phục một khoảng trống kéo dài từ Luật BHXH 2014, nơi nhóm này từng bị “bỏ sót” dù họ có thu nhập và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
-
Người làm việc không trọn thời gian nhưng có thu nhập bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu cũng sẽ phải tham gia BHXH bắt buộc. Điều này giúp đảm bảo rằng những lao động bán thời gian, một xu hướng việc làm ngày càng phổ biến, vẫn được bảo vệ đầy đủ trước rủi ro nghề nghiệp và khi về già.
-
Các nhóm đối tượng đặc thù như dân quân thường trực hay vợ/chồng của cán bộ ngoại giao đi công tác nhiệm kỳ cũng chính thức được đưa vào diện hưởng quyền lợi an sinh, thể hiện sự quan tâm đến những người phục vụ hoặc hy sinh cho lợi ích chung, nhưng Luật trước đây đã từng chưa có quy định rõ ràng để bảo vệ quyền lợi cho họ
Việc mở rộng này không chỉ giúp hệ thống bảo hiểm xã hội bao phủ rộng và sâu hơn, mà còn thể hiện rõ nguyên tắc công bằng: bất cứ ai tham gia lao động và có thu nhập ổn định đều xứng đáng được bảo vệ. Đồng thời, đây cũng là bước tiến quan trọng để Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về mở rộng an sinh xã hội toàn dân – hướng đến sự công bằng, bền vững.
4. Bổ sung quyền lợi hưởng chế độ thai sản khi điều trị vô sinh
Luật Bảo hiểm xã hội 2024 tiếp tục hoàn thiện hệ thống quyền lợi bảo hiểm bằng cách bổ sung thêm một trường hợp hưởng chế độ thai sản – người lao động nữ nghỉ việc để điều trị vô sinh. Đây là bước tiến quan trọng, không chỉ mở rộng phạm vi bảo vệ cho lao động nữ mà còn thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc đối với những vấn đề sức khỏe sinh sản trong xã hội hiện đại.
Trong khi Luật BHXH 2014 không có quy định nào liên quan đến điều trị vô sinh như một căn cứ để hưởng chế độ thai sản, thì Luật mới đã chính thức ghi nhận trường hợp này:
Điều 50. Đối tượng và điều kiện hưởng chế độ thai sản
…
5. Đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng liền kề trước khi sinh con đối với trường hợp phải nghỉ việc để điều trị vô sinh.
Từ quy định trên, có thể thấy ba điểm đáng chú ý:
-
Điều trị vô sinh chính thức được xem là căn cứ pháp lý để hưởng chế độ thai sản – điều chưa từng xuất hiện trong luật trước đây.
-
Điều kiện áp dụng là người lao động đã đóng BHXH bắt buộc từ đủ 06 tháng trở lên trong 24 tháng liền kề trước khi sinh con.
-
Việc điều trị phải dẫn đến nghỉ việc, và phải có giấy tờ y tế chứng minh từ cơ sở khám chữa bệnh.
Sự bổ sung này không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng chi phí cho người lao động nữ đang trong quá trình điều trị vô sinh, vốn thường rất tốn kém và kéo dài, mà còn thể hiện sự phát triển trong tư duy của nhà làm luật, từ việc hỗ trợ người “đã có con” sang hỗ trợ “người đang tìm kiếm cơ hội làm mẹ”. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh tỷ lệ vô sinh – hiếm muộn tại Việt Nam ngày càng tăng, và nhiều phụ nữ phải nghỉ việc dài ngày để điều trị nhưng trước đây không có chế độ hỗ trợ phù hợp.
Việc bổ sung trường hợp điều trị vô sinh vào diện hưởng chế độ thai sản là một bước đi phù hợp với thực tiễn xã hội, góp phần bảo vệ sức khỏe sinh sản và nâng cao chất lượng an sinh dành cho nữ giới. Đây không chỉ là một điều luật, mà còn là sự khích lệ và sẻ chia từ chính sách đối với hành trình làm mẹ đầy gian nan của nhiều phụ nữ.
- Rút ngắn thời hạn hợp đồng tối thiểu để tham gia BHXH bắt buộc xuống còn 01 tháng: Người lao động làm việc theo hợp đồng từ đủ 01 tháng trở lên sẽ thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, thay vì từ đủ 03 tháng như trước kia.
- Thêm chế độ hưu trí xã hội: Người từ 75 tuổi trở lên không có lương hưu, hoặc người từ 70–75 tuổi thuộc hộ nghèo/cận nghèo có thể được nhận trợ cấp hưu trí xã hội nếu đủ điều kiện theo luật.
- Mở rộng đối tượng tham gia BHXH: Bổ sung nhiều nhóm mới vào diện tham gia BHXH bắt buộc như dân quân thường trực, chủ hộ kinh doanh, người làm việc không trọn thời gian có thu nhập tối thiểu,...
- Bổ sung quyền lợi thai sản khi điều trị vô sinh: Lao động nữ nghỉ việc để điều trị vô sinh, nếu đáp ứng điều kiện về thời gian đóng BHXH, sẽ được hưởng chế độ thai sản theo quy định mới.
Kết luận
Luật Bảo hiểm xã hội 2024 mang theo nhiều điều chỉnh sâu rộng và tiến bộ nhằm nâng cao độ bao phủ, đảm bảo tính công bằng và thích ứng với thực tiễn phát triển của xã hội. Tuy nhiên, những nội dung được phân tích trong bài viết này chỉ là một phần trong số nhiều điểm mới đáng chú ý của Luật BHXH 2024. Việc rà soát và áp dụng đúng các quy định mới sẽ giúp người lao động và người sử dụng lao động chủ động hơn trong bảo vệ quyền lợi của mình.