Mang thai hộ là một giải pháp nhân đạo được pháp luật cho phép trong những trường hợp đặc biệt nhằm giúp người khác có con. Trong quá trình thực hiện, người mang thai hộ có thể đối mặt với những rủi ro về sức khỏe, quyền lợi và pháp lý. Để biết họ có được bảo vệ hay không, cần làm rõ quy định của pháp luật hiện hành và cách xử lý các tranh chấp liên quan đến thai sản và quyền nuôi con.
1. Người mang thai hộ có được pháp luật công nhận và bảo vệ không?
Khoản 3 khoản 4 Điều 97 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định cụ thể:
Khoản 22, Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014
Điều 97. Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
...
3. Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
4. Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
...
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một hình thức đặc biệt được pháp luật Việt Nam cho phép từ năm 2015, nhằm hỗ trợ các cặp vợ chồng không thể tự mình mang thai và sinh con vì lý do y học. Theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, người mang thai hộ là người có đủ năng lực hành vi dân sự, đã từng sinh con, tự nguyện mang thai hộ và có mối quan hệ thân thích với bên nhờ mang thai.
Sự bảo vệ của pháp luật thể hiện trước hết ở việc yêu cầu phải có hợp đồng mang thai hộ bằng văn bản được công chứng, xác lập quyền – nghĩa vụ giữa hai bên. Người mang thai hộ có quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe, được chăm sóc y tế và không bị ép buộc. Đồng thời, việc mang thai hộ không được thực hiện vì mục đích thương mại, tức là không có yếu tố mua bán hay lợi nhuận, nhằm tránh xâm hại nhân phẩm và quyền làm mẹ.
Tình huống giả định:
Chị Lê Thị Minh Trang, 30 tuổi, cư trú tại TP. Thủ Đức (TP.HCM), mang thai hộ cho vợ chồng anh Nguyễn Đức Tín và chị Phạm Ngọc Quỳnh, theo đúng quy định pháp luật và được thực hiện tại một bệnh viện chuyên khoa. Trong 5 tháng đầu, chị Trang được hỗ trợ chi phí khám thai và tư vấn tâm lý định kỳ.
Tuy nhiên, từ tháng thứ 6 trở đi, chị Quỳnh yêu cầu chị Trang phải chuyển về sống tại nhà riêng của mình để “dễ quản lý”, cấm sử dụng điện thoại cá nhân, đồng thời yêu cầu không được tiếp xúc với người nhà. Chị Trang không đồng ý vì cho rằng điều đó vi phạm quyền riêng tư và khiến chị bị căng thẳng tâm lý.
Sau khi trình bày với bác sĩ sản khoa và bộ phận pháp chế bệnh viện, phía bệnh viện đã mời hai bên làm việc, giải thích rõ ràng rằng người mang thai hộ có quyền giữ cuộc sống riêng, chỉ cần đảm bảo thực hiện nghĩa vụ y tế và cam kết đúng theo pháp luật. Gia đình người nhờ mang thai hộ sau đó đã phải điều chỉnh lại hành vi và tiếp tục hỗ trợ theo thỏa thuận ban đầu.
Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.
2. Bị ép buộc, đe dọa khi mang thai hộ thì được pháp luật bảo vệ như thế nào?
Khoản 1 Điều 95 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định cụ thể:
Điều 95. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản....
Điểm b Khoản 3 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định cụ thể:
Điều 7. Vi phạm quy định về trật tự công cộng
...
3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
...
b) Tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
...
Khoản 1 Điều 584 và Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể:
Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác....
Điều 590. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm
1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
...
Luật Hôn nhân và Gia đình quy định rất rõ ràng về việc nghiêm cấm các hành vi lợi dụng mang thai hộ để xâm phạm đến quyền, sức khỏe và danh dự của người phụ nữ. Người mang thai hộ là cá nhân tự nguyện, không chịu ràng buộc về mặt pháp lý ngoài các thỏa thuận đúng quy định giữa các bên. Vì vậy, nếu bị ép buộc thực hiện hành vi trái ý muốn, bị quản lý như người phụ thuộc hoặc bị xúc phạm, người mang thai hộ có thể yêu cầu pháp luật can thiệp.
Tùy tính chất hành vi, người xâm phạm có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 144/2021/NĐ-CP nếu có hành vi đe dọa, xúc phạm danh dự hoặc vi phạm trật tự công cộng. Ngoài ra, nếu quyền lợi về chăm sóc y tế và hỗ trợ thai kỳ bị cắt bỏ trái cam kết, người mang thai hộ hoàn toàn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 584 và Điều 590 Bộ luật Dân sự.
Tóm lại, người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không chỉ được pháp luật thừa nhận mà còn được bảo vệ rõ ràng về quyền và nhân phẩm. Mọi hành vi xâm phạm đến quyền tự nguyện, sức khỏe hoặc danh dự của người mang thai hộ đều có thể bị xử lý theo quy định pháp luật, tùy theo mức độ vi phạm.
Tình huống giả định:
Chị Nguyễn Thị Thanh Trúc, 29 tuổi, ngụ tại huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, mang thai hộ cho chị Lê Kim Nhung (người nhờ mang thai hộ) theo đúng trình tự pháp luật và được thực hiện tại Bệnh viện Từ Dũ (TP.HCM). Ban đầu hai bên thỏa thuận hỗ trợ sinh hoạt hằng tháng, chi phí khám thai và cam kết tôn trọng đời sống riêng tư.
Tuy nhiên, đến tháng thứ 5, chị Nhung bắt đầu có những yêu cầu quá mức như: ép chị Trúc phải đến ở chung, không được tiếp xúc với gia đình, cấm dùng mạng xã hội và dọa cắt mọi hỗ trợ nếu không tuân theo. Đồng thời, chị Nhung liên tục đăng hình ảnh bụng bầu của chị Trúc lên Facebook kèm các bình luận gợi ý như “mẹ bầu thuê”.
Cảm thấy bị xúc phạm và tổn thương nghiêm trọng, chị Trúc đã phản ánh sự việc với bệnh viện và được bộ phận pháp lý tư vấn gửi đơn lên Hội Phụ nữ và UBND xã. Sau khi làm việc, chính quyền địa phương đã mời hai bên đến hòa giải, yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm quyền riêng tư, đồng thời cam kết bảo vệ sức khỏe, tinh thần cho người mang thai hộ đến hết thai kỳ.
Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.
Kết luận
Mang thai hộ là một hình thức hỗ trợ sinh sản đặc biệt nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro về sức khỏe, tâm lý và quyền cá nhân của người phụ nữ tham gia. Pháp luật quy định rõ ràng rằng người mang thai hộ có quyền được tư vấn y tế, chăm sóc sức khỏe và được tôn trọng danh dự, nhân phẩm trong suốt quá trình mang thai. Nếu bị ép buộc, đe dọa hoặc xâm phạm quyền lợi, người mang thai hộ có thể yêu cầu cơ quan chức năng bảo vệ và xử lý hành vi vi phạm theo quy định pháp luật.