Trình tự nghị án của Hội đồng xét xử trong vụ án hình sự được tiến hành ra sao?

Trình tự nghị án của Hội đồng xét xử trong vụ án hình sự được tiến hành ra sao?

Trình tự nghị án được thực hiện qua các bước thảo luận từng vấn đề, ghi biên bản, biểu quyết theo đa số và quyết định hướng xử lý vụ án.

Hoạt động nghị án và tuyên án là hai bước quan trọng quyết định kết quả xét xử trong một vụ án hình sự. Trình tự nghị án của Hội đồng xét xử được pháp luật quy định chặt chẽ nhằm bảo đảm việc đánh giá chứng cứ và thảo luận nội bộ diễn ra khách quan, đầy đủ và đúng trình tự. Bên cạnh đó, việc tuyên án tại phiên tòa cũng có quy định riêng về chủ thể được phép công bố bản án thể hiện tính minh bạch và thống nhất trong quá trình xét xử.

1. Trình tự nghị án của Hội đồng xét xử trong vụ án hình sự được tiến hành ra sao?

Trình tự nghị án của Hội đồng xét xử trong vụ án hình sự được tiến hành ra sao?

Trả lời vắn tắt: Hội đồng xét xử nghị án theo trình tự gồm đưa ra các vấn đề cần thảo luận, ghi biên bản nghị án, biểu quyết theo đa sốquyết định hướng xử lý vụ án.

Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015

Điều 326. Nghị án

1. Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Việc nghị án phải được tiến hành tại phòng nghị án.

Chủ tọa phiên tòa chủ trì việc nghị án có trách nhiệm đưa ra từng vấn đề của vụ án phải được giải quyết để Hội đồng xét xử thảo luận, quyết định. Chủ tọa phiên tòa tự mình hoặc phân công một thành viên Hội đồng xét xử ghi biên bản nghị án. Các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Nếu không có ý kiến nào chiếm đa số thì phải thảo luận và biểu quyết lại từng ý kiến của các thành viên Hội đồng xét xử đã đưa ra để xác định ý kiến chiếm đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.

2. Việc nghị án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ của vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác.

3. Các vấn đề của vụ án phải được giải quyết khi nghị án gồm:

a) Vụ án có thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hay không;

b) Tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do luật sư, bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp;

c) Có hay không có căn cứ kết tội bị cáo. Trường hợp đủ căn cứ kết tội thì phải xác định rõ điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự được áp dụng;

d) Hình phạt, biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo; trách nhiệm bồi thường thiệt hại; vấn đề dân sự trong vụ án hình sự;

đ) Bị cáo có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hay không;

e) Án phí hình sự, án phí dân sự; xử lý vật chứng; tài sản bị kê biên, tài khoản bị phong tỏa;

g) Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử;

h) Kiến nghị phòng ngừa tội phạm, khắc phục vi phạm.

4. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút quyết định truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị Viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.

5. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể quyết định kéo dài thời gian nghị án nhưng không quá 07 ngày kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa biết giờ, ngày, tháng, năm và địa điểm tuyên án.

6. Kết thúc việc nghị án, Hội đồng xét xử phải quyết định một trong các vấn đề:

a) Ra bản án và tuyên án;

b) Trở lại việc xét hỏi và tranh luận nếu có tình tiết vụ án chưa được xét hỏi, chưa được làm sáng tỏ;

c) Trả hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ;

d) Tạm đình chỉ vụ án.

Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa về các quyết định tại điểm c và điểm d khoản này.

7. Trường hợp phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm thì Hội đồng xét xử quyết định việc khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 18 và Điều 153 của Bộ luật này.

Trong giai đoạn nghị án, Chủ tọa phiên tòa sẽ lần lượt nêu từng vấn đề cần được Hội đồng xét xử xem xét như chứng cứ, tội danh, tính hợp pháp của các hành vi tố tụng, trách nhiệm bồi thường hay xử lý vật chứng. Một thành viên được phân công lập biên bản để ghi lại nội dung thảo luận. Các thành viên Hội đồng xét xử giải quyết từng vấn đề bằng cách biểu quyết theo đa số, trong đó Hội thẩm biểu quyết trước và Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Nếu không có ý kiến nào chiếm đa số, các thành viên tiếp tục thảo luận và biểu quyết lại. Khi kết thúc nghị án, Hội đồng xét xử lựa chọn hướng xử lý tuyên án, trở lại phần xét hỏi tranh luận, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Tình huống giả định:

Trình tự nghị án của Hội đồng xét xử trong vụ án hình sự được tiến hành ra sao?

  • Hội đồng xét xử bắt đầu nghị án sau phần tranh luận
    Tại Thành phố Hồ Chí Minh, vụ án của bị cáo Lê Văn Tuấn được đưa ra xét xử sơ thẩm. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Chủ tọa thông báo chuyển sang nghị án và cùng các Hội thẩm vào phòng nghị án. Chủ tọa nêu lần lượt các vấn đề cần xem xét như tính hợp pháp của chứng cứ, khả năng kết tội và trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

  • Các thành viên biểu quyết theo đa số để thống nhất quan điểm
    Trong phòng nghị án, từng thành viên trình bày ý kiến của mình dựa trên tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau để xác định ý kiến chiếm đa số. Một thành viên được phân công ghi biên bản nghị án đồng thời ghi nhận cả ý kiến thiểu số (nếu có) để đưa vào hồ sơ vụ án.

  • Hội đồng xét xử đưa ra quyết định sau khi nghị án
    Sau khi thống nhất các nội dung, Hội đồng xét xử quyết định ra bản án và tuyên án tại phiên tòa. Chủ tọa thông báo thời gian quay trở lại phòng xử để đọc bản án. Một số kiến nghị về khắc phục vi phạm tố tụng và phòng ngừa tội phạm cũng được ghi nhận để gửi cơ quan liên quan.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)

2. Việc tuyên án tại phiên tòa có bắt buộc phải do Chủ tọa phiên tòa thực hiện không?

Việc tuyên án tại phiên tòa có bắt buộc phải do Chủ tọa phiên tòa thực hiện không?

Trả lời vắn tắt: Không. Việc tuyên án có thể do Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử thực hiện.

Điều 327 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015

Điều 327. Tuyên án

Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án. Trường hợp xét xử kín thì chỉ đọc phần quyết định trong bản án. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.

Việc đọc bản án không chỉ do Chủ tọa phiên tòa đảm nhiệm mà bất kỳ thành viên nào của Hội đồng xét xử cũng có thể được phân công thực hiện. Khi tuyên án, người đọc sẽ công bố toàn bộ bản án hoặc phần quyết định trong trường hợp xét xử kín. Sau khi đọc xong, họ có thể giải thích thêm cho bị cáo và những người tham gia tố tụng về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành bản án. 

Tình huống giả định:

Việc tuyên án tại phiên tòa có bắt buộc phải do Chủ tọa phiên tòa thực hiện không?

  • Phiên tòa kết thúc phần tranh luận và chuyển sang tuyên án
    Tại Thành phố Đà Nẵng, vụ án của bị cáo Trần Quốc Bảo được đưa ra xét xử sơ thẩm. Sau phần nghị án, Hội đồng xét xử quay lại phòng xử để công bố bản án. Chủ tọa xác nhận đã hoàn tất nội dung nghị án và thông báo bắt đầu phần tuyên án.

  • Một thành viên Hội đồng xét xử được phân công đọc bản án
    Do vấn đề sức khỏe bất chợt, Chủ tọa đề nghị Thẩm phán Nguyễn Văn Hưng (thành viên Hội đồng xét xử) đứng lên đọc bản án. Thẩm phán Hưng đọc toàn bộ phần nội dung chính và phần quyết định xử lý đối với bị cáo Bảo. Việc tuyên án diễn ra mạch lạc, đúng quy trình và được thư ký phiên tòa ghi nhận đầy đủ.

  • Hội đồng xét xử giải thích quyền kháng cáo cho bị cáo
    Sau khi tuyên án, Thẩm phán Hưng giải thích rõ quyền kháng cáo và thời hạn thực hiện cho bị cáo Bảo. Bị cáo xác nhận đã nghe rõ và hiểu nội dung bản án. Phiên tòa kết thúc trong trật tự và đúng thủ tục tố tụng.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)

3. Kết luận

Trình tự nghị án và việc tuyên án tại phiên tòa hình sự là hai bước quan trọng bảo đảm tính khách quan và minh bạch trong xét xử. Hội đồng xét xử thảo luận, biểu quyết và đưa ra quyết định dựa trên các vấn đề trọng tâm của vụ án theo đúng trình tự được pháp luật quy định. Việc tuyên án không chỉ do Chủ tọa phiên tòa thực hiện mà có thể được phân công cho một thành viên khác của Hội đồng xét xử để bảo đảm phiên tòa diễn ra suôn sẻ và đúng thẩm quyền.

GÓC BÌNH LUẬN - THẢO LUẬN
Tố Uyên
Biên tập

Mình là Tố Uyên, hiện đang là chuyên viên pháp lý tại Vietnam National Law. Là một người yêu thích phân tích các vụ việc pháp lý và luôn cập nhật các vấn đề thời sự pháp luật, Uyên luôn tìm kiếm sự câ...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá