Mở bán pre-order nhưng không giao hàng có vi phạm pháp luật không?

Mở bán pre-order nhưng không giao hàng có vi phạm pháp luật không?

Không giao hàng sau khi nhận pre-order có thể khiến người bán phải bồi thường dân sự và đối mặt với trách nhiệm hình sự nếu có dấu hiệu lừa đảo.

Pre-order là hình thức mua bán phổ biến trong thương mại điện tử, giúp kết nối nhanh giữa người bán và người mua từ khâu đặt hàng đến thanh toán. Tuy nhiên, lợi dụng hình thức này để nhận tiền trước rồi không giao hàng là hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại tài sản và làm mất lòng tin trong xã hội. Pháp luật hiện hành đã có quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự lẫn hình sự đối với hành vi không giao hàng sau khi đã nhận đặt trước.

1. Mở pre-order nhưng không giao hàng có phải bồi thường không?

Trả lời vắn tắt: Có. Việc mở pre-order rồi không giao hàng đúng thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và có thể bị buộc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật dân sự.

Mở pre-order nhưng không giao hàng có phải bồi thường không?

Điều 351 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể

Bộ luật Dân sự 2015

Điều 351. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
1. Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.

2. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

3. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.

Trong giao dịch pre-order, khi người tiêu dùng chuyển tiền cho người bán để đặt trước hàng hóa, giữa hai bên đã hình thành một hợp đồng mua bán tài sản có thời hạn. Người bán có nghĩa vụ giao hàng đúng thời gian, đúng số lượng, chất lượng và chủng loại đã cam kết. Nếu họ không thực hiện nghĩa vụ này, tức không giao hàng hoặc trì hoãn vô lý, thì được xem là vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

Theo Bộ luật Dân sự 2015, người vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải chịu trách nhiệm dân sự, bao gồm: hoàn trả khoản tiền đã nhận, bồi thường thiệt hại (nếu có), lãi chậm trả và các chi phí hợp lý mà bên bị thiệt hại phải bỏ ra để bảo vệ quyền lợi của mình. Người tiêu dùng có thể khởi kiện ra tòa án để yêu cầu người bán bồi thường, đồng thời đòi lại số tiền đã thanh toán.

Tình huống giả định

Anh Khánh thấy một cửa hàng điện tử trên mạng mở chương trình pre-order loa Bluetooth với giá ưu đãi 1,8 triệu đồng, giao hàng sau 20 ngày. Tin tưởng vào thương hiệu lâu năm và hình ảnh quảng cáo, anh chuyển khoản đặt mua hai chiếc cho gia đình, tổng cộng 3,6 triệu đồng. Hết thời hạn giao hàng, anh không nhận được sản phẩm, liên hệ thì phía cửa hàng chỉ hứa miệng “sẽ sớm gửi”, rồi dần dần không phản hồi tin nhắn hay cuộc gọi.

Sau gần hai tháng chờ đợi, anh Khánh nộp đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận nơi cửa hàng đăng ký kinh doanh, yêu cầu bên bán hoàn trả toàn bộ số tiền đã thanh toán, đồng thời bồi thường thêm 400.000 đồng tiền lãi chậm trả và chi phí gửi đơn, đi lại. Tòa án thụ lý vụ án, xác định giữa hai bên đã hình thành hợp đồng mua bán có hiệu lực, và bên bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng. Kết quả, tòa tuyên buộc người bán phải trả lại 3,6 triệu đồng và thêm 400.000 đồng tiền thiệt hại mà anh Khánh chứng minh được.

Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.

2. Mở pre-order nhưng không giao hàng có thể bị xử lý hình sự không?

Trả lời vắn tắt: Có. Nếu người bán có hành vi gian dối để chiếm đoạt tiền đặt cọc, họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Mở pre-order nhưng không giao hàng có thể bị xử lý hình sự không?

Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể

Bộ luật Hình sự 2015

Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Tái phạm nguy hiểm;

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Việc mở pre-order rồi không giao hàng không phải lúc nào cũng bị coi là lừa đảo. Tuy nhiên, nếu người bán có hành vi gian dối ngay từ đầu, như quảng cáo sai sự thật, không có hàng để bán, hoặc cố tình không giao hàng sau khi nhận tiền, thì hành vi này được xem là lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015. Gian dối ở đây thể hiện qua việc che giấu sự thật, cung cấp thông tin sai lệch, hoặc hứa hẹn thực hiện điều không có thật nhằm chiếm đoạt tiền của người mua.

Mức độ xử lý sẽ phụ thuộc vào giá trị tài sản chiếm đoạt và các tình tiết cụ thể. Nếu số tiền chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm. Trường hợp chiếm đoạt từ 50 triệu đồng trở lên, có tính chất chuyên nghiệp, hoặc phạm tội có tổ chức, mức phạt tù sẽ từ 5 năm đến 10 năm, kèm theo phạt tiền và tịch thu tài sản. 

Tình huống giả định

Chị Lan sống tại Hà Nội, thường mua hàng qua mạng. Một hôm, chị thấy một tài khoản Facebook quảng bá chương trình pre-order máy ép chậm cao cấp, hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc, giá ưu đãi chỉ 2 triệu đồng, giao hàng trong 15 ngày. Bài đăng có hình ảnh bắt mắt, lượt tương tác lớn và nhiều bình luận tích cực. Tin tưởng, chị Lan chuyển khoản toàn bộ tiền mua hàng. Sau đó, chị rủ thêm người thân cùng mua, tổng cộng 5 người, mỗi người đặt một chiếc máy.

Đến hạn, không ai trong nhóm nhận được hàng. Chủ tài khoản Facebook khóa trang cá nhân, không thể liên lạc. Sau khi báo công an, cơ quan điều tra phát hiện người này đã dùng nhiều tài khoản ảo để đăng bán pre-order, nhận tiền rồi chiếm đoạt. Tổng số tiền chiếm đoạt từ hàng trăm khách là hơn 300 triệu đồng. Người bán thừa nhận đã cố tình tạo thông tin giả để lừa đảo qua mạng xã hội. Với hành vi này, người đó bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự, và có thể đối diện mức án từ 2 năm đến 7 năm tù tùy theo tình tiết tăng nặng.

Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.

Kết luận

Hành vi mở bán pre-order nhưng không giao hàng là vi phạm. Khi người bán không thực hiện nghĩa vụ giao hàng như đã cam kết, họ phải chịu trách nhiệm dân sự và bồi thường toàn bộ thiệt hại phát sinh theo quy định pháp luật. Nếu hành vi thể hiện rõ mục đích gian dối để chiếm đoạt tiền của người mua, người bán có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với mức án lên đến 10 năm tù.

Tuyết Dung
Biên tập

Mình là Nguyễn Ngọc Tuyết Dung, sinh viên chương trình Chất lượng cao chuyên ngành Dân sự - Thương mại - Quốc tế tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Mình chọn ngành luật vì tin rằng pháp luật là...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá