Việc kết hôn cần sự tự nguyện giữa hai người. Tuy nhiên, trong thực tế, không ít trường hợp xảy ra lừa dối nhằm đạt được mục đích kết hôn. Pháp luật hiện hành đã có quy định cụ thể để bảo vệ quyền lợi cho người bị lừa trong các trường hợp như vậy.
1. Lừa dối kết hôn là gì?
Khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình quy định như sau:
Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
Điều 2. Căn cứ hủy việc kết hôn trái pháp luật
...
3. "Lừa dối kết hôn” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 của Luật hôn nhân và gia đình là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn.
...
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
...
2. Cấm các hành vi sau đây:
...
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
...
Theo quy định pháp luật, “lừa dối kết hôn” là hành vi cố ý che giấu hoặc cung cấp thông tin sai lệch, khiến cho bên kia hiểu không đúng sự thật và đồng ý kết hôn, trong khi nếu biết rõ sự thật thì đã không đồng ý. Hành vi này có thể do chính một bên thực hiện, hoặc do người thứ ba tác động nhằm thúc đẩy việc kết hôn xảy ra.
Ví dụ như: giấu tình trạng hôn nhân, tiền án, tiền sự, tình trạng sức khỏe nghiêm trọng, hoặc mạo danh thân phận, nghề nghiệp... để tạo sự tin tưởng và thuyết phục người kia chấp nhận kết hôn.
Pháp luật nghiêm cấm hành vi này vì vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong hôn nhân - một nguyên tắc cốt lõi được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Khi phát hiện hành vi lừa dối trong việc kết hôn, người bị hại có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy việc kết hôn trái pháp luật, nhằm bảo vệ quyền lợi và khôi phục sự công bằng trong quan hệ nhân thân.
Tình huống giả định
- Chị Hồng quen với anh Minh
Chị Nguyễn Thị Hồng (trú tại phường Tân Ninh, tỉnh Tây Ninh) quen anh Lê Văn Minh qua một nhóm mạng xã hội. Anh Minh tự giới thiệu đang làm kỹ sư xây dựng, có nhà riêng, thu nhập ổn định và chưa từng kết hôn. - Chị Hồng và anh Minh tìm hiểu nhau
Trong thời gian tìm hiểu, anh Minh thường xuyên tặng quà, nhắn tin quan tâm và thể hiện tình cảm. Gia đình chị Hồng cũng được anh Minh thăm hỏi, tạo được lòng tin tuyệt đối. -
Hai người đăng ký kết hôn
Hai người đăng ký kết hôn tại UBND phường Tân Ninh. Lễ cưới tổ chức đơn giản với sự tham gia của người thân hai bên. Sau đám cưới, chị Hồng chuyển về sống chung với anh Minh tại một căn nhà thuê. - Chị Hồng phát hiện sự thật về anh Minh
Qua bạn bè và giấy tờ phát hiện trong nhà, chị Hồng phát hiện anh Minh thực tế đã có vợ hợp pháp ở tỉnh khác, đồng thời đang nợ một khoản lớn. Anh Minh thừa nhận che giấu để được kết hôn. -
Chị Hồng yêu cầu huỷ kết hôn
Chị Hồng đến Hội Liên hiệp Phụ nữ phường Tân Ninh nhờ hỗ trợ pháp lý và làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên hủy kết hôn trái pháp luật vì bị lừa dối khi xác lập quan hệ hôn nhân. -
Toà quyết định huỷ việc kết hôn
Sau khi xác minh, Tòa án nhân dân nhận định việc anh Minh cố ý che giấu tình trạng hôn nhân là hành vi lừa dối kết hôn theo quy định pháp luật. Tòa quyết định hủy việc kết hôn giữa hai người theo đúng trình tự pháp luật.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Người bị lừa dối kết hôn có được quyền nhờ người khác yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn không?
Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 10. Người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật
1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này.
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:
a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Quy định này xác lập rõ quyền khởi kiện hủy kết hôn trái pháp luật đối với những trường hợp bị lừa dối hoặc cưỡng ép khi kết hôn. Cụ thể, người bị lừa dối được tự mình nộp đơn yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn.
Nếu người bị lừa dối không thể hoặc không muốn trực tiếp nộp đơn, họ có thể ủy quyền hoặc đề nghị các cá nhân, tổ chức như cha mẹ, người thân hoặc tổ chức có thẩm quyền (như Hội Liên hiệp Phụ nữ, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình…) thay mặt họ thực hiện yêu cầu. Việc hủy kết hôn chỉ đặt ra khi quan hệ hôn nhân vi phạm điều kiện tự nguyện kết hôn được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật, tức là kết hôn không trên cơ sở ý chí tự nguyện.
Tình huống giả định
-
Chị Vân kết hôn với anh Phúc
Chị Nguyễn Thị Thanh Vân (phường Xóm Chiếu, TPHCM) làm thủ tục đăng ký kết hôn với anh Trần Văn Phúc. Trước khi cưới, anh Phúc giới thiệu mình là độc thân, làm kỹ sư xây dựng, có thu nhập ổn định và không có tiền án. -
Chị Vân phát hiện bị lừa dối kết hôn
Sau cưới, chị Vân phát hiện anh Phúc từng có một đời vợ, đang có con riêng và từng bị xử phạt hành chính vì hành vi lừa đảo. Các thông tin anh cung cấp khi kết hôn đều là sai sự thật. Chị Vân xác định nếu biết rõ từ đầu thì đã không đồng ý cưới. -
Chị Vân uỷ quyền cho mẹ chị làm thủ tục yêu cầu huỷ việc kết hôn
Do đang đi lao động ở nước ngoài và không thể về Việt Nam, chị Vân lập văn bản ủy quyền hợp pháp cho mẹ ruột là bà Lê Thị Hòa yêu cầu Tòa án hủy kết hôn do bị lừa dối. Đồng thời, bà Hòa gửi đơn và hồ sơ kèm theo tới Tòa án nhân dân. -
Toà án huỷ việc kết hôn
Tòa án thụ lý và xác định đây là hành vi "lừa dối kết hôn" theo khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP. Kết hôn giữa chị Vân và anh Phúc bị tuyên hủy theo Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Kết hôn là sự kiện mang ý nghĩa thiêng liêng, gắn liền với quyền tự nguyện của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp bị lợi dụng để phục vụ mục đích cá nhân thông qua hành vi lừa dối kết hôn. Đây là hành vi cố ý che giấu hoặc làm sai lệch thông tin, khiến bên kia hiểu lầm và đồng ý kết hôn. Khi phát hiện bị lừa, người bị hại hoàn toàn có quyền trực tiếp hoặc nhờ cá nhân, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.