Việc nuôi con nuôi nhằm mục đích nhân đạo, giúp trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được chăm sóc và giáo dục trong môi trường gia đình. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, mối quan hệ nuôi dưỡng này có thể bị chấm dứt theo quy định của pháp luật. Để chấm dứt hợp pháp việc nuôi con nuôi, cần có căn cứ cụ thể và được giải quyết bởi cơ quan có thẩm quyền.
1. Chấm dứt việc nuôi con nuôi khi nào?
Điều 13, Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định như sau:
Điều 25. Căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi
Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
1. Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi;
2. Con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
3. Cha mẹ nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
4. Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật này.
...
Điều 13. Các hành vi bị cấm
1. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em.
2. Giả mạo giấy tờ để giải quyết việc nuôi con nuôi.
3. Phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
4. Lợi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số.
5. Lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có công với cách mạng, người thuộc dân tộc thiểu số để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước.
6. Ông, bà nhận cháu làm con nuôi hoặc anh, chị, em nhận nhau làm con nuôi.
7. Lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật, phong tục tập quán, đạo đức, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt nếu: (1) con nuôi đã thành niên và hai bên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi dưỡng; (2) một bên có hành vi nghiêm trọng như cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc ngược đãi, hành hạ, phá hoại tài sản của bên kia và bị kết án; (3) một trong hai bên vi phạm các hành vi bị cấm theo Điều 13 Luật Nuôi con nuôi 2010 như lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi, bóc lột, xâm hại trẻ em, phân biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi, giả mạo giấy tờ, vi phạm đạo đức xã hội...
Tình huống giả định
Bà Nguyễn Thị Ánh (52 tuổi, trú tại TP. Cần Thơ) nhận nuôi cháu Trần Văn Phúc (14 tuổi) theo thủ tục pháp lý từ năm 2017. Trong quá trình sống chung, bà Ánh nhiều lần ngược đãi, đánh đập và bắt Phúc lao động nặng nhọc để phục vụ quán ăn của gia đình. Phúc thường xuyên phải nghỉ học, không được chăm sóc đầy đủ như các con ruột của bà.
Sau khi sự việc bị phát hiện, chính quyền địa phương lập biên bản và chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều. Căn cứ vào hành vi ngược đãi và phân biệt đối xử nghiêm trọng, Tòa án đã ra quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi 2010.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
2. Nơi có thẩm quyền giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi là cơ quan nào?
Khoản 5 Điều 29, điểm b khoản 2 Điều 35, điểm l khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 29. Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
...5. Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
...
Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
...2. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:
...
b) Yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 29 của Bộ luật này;
...
Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
...
2. Thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:
...
l) Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;
...
Theo quy định tại Điều 29, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi là một trong những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân (theo khoản 5 Điều 29). Cụ thể, Tòa án nhân dân cấp huyện là cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu này (điểm b khoản 2 Điều 35).
Về thẩm quyền theo lãnh thổ, Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú hoặc làm việc sẽ là nơi tiếp nhận và xử lý yêu cầu chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi (điểm l khoản 2 Điều 39).
Như vậy, khi một trong hai bên có căn cứ hợp pháp muốn chấm dứt việc nuôi con nuôi, họ phải nộp đơn đến Tòa án nhân dân cấp huyện tại nơi mình hoặc bên còn lại đang cư trú hoặc làm việc để được giải quyết theo trình tự, thủ tục pháp luật.
Tình huống giả định
Ông Nguyễn Văn Hoàng (45 tuổi, cư trú tại huyện Bến Lức, tỉnh Long An) nhận bé Trần Minh Trí làm con nuôi hợp pháp khi Trí mới 7 tuổi, sau khi cha mẹ ruột của em qua đời vì tai nạn. Ban đầu, mối quan hệ giữa hai cha con rất tốt. Tuy nhiên, khi Trí trưởng thành, cả hai bắt đầu có nhiều bất đồng trong quan điểm sống, lối sinh hoạt và cách xử lý công việc gia đình. Mâu thuẫn ngày càng nghiêm trọng khiến tình cảm cha con rạn nứt, không còn sự gắn bó như trước.
Minh Trí, lúc này đã 22 tuổi, chủ động đề nghị chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi. Ông Hoàng sau khi cân nhắc cũng đồng ý vì cho rằng quan hệ giữa họ không còn phù hợp với tinh thần của việc nuôi con nuôi nữa. Hai người cùng nhau nộp đơn yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi đến Tòa án nhân dân huyện Bến Lức nơi ông Hoàng đang cư trú để được giải quyết theo đúng quy định pháp luật.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
Kết luận
Việc chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi được pháp luật quy định cụ thể để bảo vệ quyền lợi của cả cha mẹ nuôi và con nuôi. Các căn cứ hợp pháp bao gồm hành vi vi phạm đạo đức, pháp luật hoặc sự thỏa thuận tự nguyện của hai bên. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc chấm dứt là Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của một trong hai bên.