Trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, “kiểm soát đặc biệt” là một trong những biện pháp mạnh nhất mà Ngân hàng Nhà nước có thể áp dụng với các tổ chức tín dụng có dấu hiệu mất an toàn. Biện pháp này nhằm bảo vệ hệ thống tài chính khỏi nguy cơ ảnh hưởng đến toàn hệ thống. Một tổ chức tín dụng có thể bị kiểm soát đặc biệt nếu không khắc phục được rủi ro sau khi đã bị can thiệp sớm.
1. Kiểm soát đặc biệt là gì?
Căn cứ khoản 19 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng 2024 quy định
Luật Các tổ chức tín dụng 2024
Điều 4. Giải thích từ ngữ
…
19. Kiểm soát đặc biệt là việc Ngân hàng Nhà nước quyết định đặt tổ chức tín dụng dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước.
…
Khác với thanh tra thông thường, kiểm soát đặc biệt cho phép Ngân hàng Nhà nước can thiệp sâu và trực tiếp vào tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng sẽ phải chịu giám sát toàn bộ hoạt động kinh doanh, tài chính và quản trị. Việc này nhằm ngăn chặn nguy cơ phá sản và bảo vệ người gửi tiền.
Tình huống giả định
Ngân hàng Trường Hải bị kiểm soát đặc biệt do sai phạm quản trị
-
Ra quyết định cho vay sai quy định liên tiếp
Ngân hàng TMCP Trường Hải, có trụ sở tại Hà Nội, rơi vào khủng hoảng do ban lãnh đạo cấp cao liên tục phê duyệt các khoản vay lớn không đúng quy trình. Nhiều khoản vay được cấp mà không trải qua thẩm định rủi ro nghiêm ngặt, dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh khoản. -
Không gửi phương án khắc phục theo yêu cầu của NHNN
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có cảnh báo và yêu cầu Trường Hải gửi phương án khắc phục, ngân hàng không nộp đúng hạn, cũng không điều chỉnh theo yêu cầu bằng văn bản. Cùng thời điểm đó, tỷ lệ an toàn vốn giảm mạnh, chỉ còn 3,8% kéo dài suốt 6 tháng. -
Bị đưa vào diện kiểm soát đặc biệt
Trước nguy cơ ảnh hưởng đến hệ thống tài chính và quyền lợi người gửi tiền, Ngân hàng Nhà nước quyết định áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt đối với Trường Hải theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng. -
Mọi hoạt động tài chính bị kiểm soát chặt chẽ
Từ thời điểm bị kiểm soát đặc biệt, mọi hoạt động cấp tín dụng, đầu tư, chi tiêu của Trường Hải đều phải được Ban kiểm soát đặc biệt phê duyệt. Đồng thời, các cổ đông lớn bị hạn chế chuyển nhượng cổ phần, và mọi khoản vay từ NHNN chuyển sang hình thức “vay đặc biệt” để tăng cường giám sát.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Tổ chức tín dụng bị kiểm soát đặc biệt khi nào?
Theo Điều 162 Luật Các tổ chức tín dụng 2024 quy định về các trường hợp ngân hàng bị kiểm soát:
Luật Các tổ chức tín dụng 2024
Điều 162. Áp dụng kiểm soát đặc biệt tổ chức tín dụng
1. Ngân hàng Nhà nước xem xét, quyết định đặt tổ chức tín dụng vào kiểm soát đặc biệt khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Tổ chức tín dụng được can thiệp sớm không có phương án khắc phục gửi Ngân hàng Nhà nước hoặc không điều chỉnh phương án khắc phục theo yêu cầu bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước;
b) Trong thời hạn thực hiện phương án khắc phục, tổ chức tín dụng được can thiệp sớm không có khả năng thực hiện phương án khắc phục;
c) Hết thời hạn thực hiện phương án khắc phục mà tổ chức tín dụng không khắc phục được tình trạng dẫn đến thực hiện can thiệp sớm;
d) Bị rút tiền hàng loạt và có nguy cơ gây mất an toàn hệ thống tổ chức tín dụng;
đ) Tỷ lệ an toàn vốn của tổ chức tín dụng thấp hơn 04% trong thời gian 06 tháng liên tục;
e) Tổ chức tín dụng bị giải thể không có khả năng thanh toán đầy đủ các khoản nợ trong quá trình thanh lý tài sản.
2. Kể từ ngày tổ chức tín dụng được đặt vào kiểm soát đặc biệt, chủ sở hữu, thành viên góp vốn, cổ đông của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt phải báo cáo việc sử dụng cổ phần, phần vốn góp; không được chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp; không được sử dụng cổ phần, phần vốn góp để làm tài sản bảo đảm, trừ trường hợp thực hiện theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Kể từ ngày tổ chức tín dụng được đặt vào kiểm soát đặc biệt, dư nợ gốc, lãi của khoản vay tái cấp vốn của tổ chức tín dụng đó tại Ngân hàng Nhà nước được chuyển thành dư nợ gốc, lãi của khoản vay đặc biệt và tiếp tục thực hiện theo cơ chế vay tái cấp vốn của các khoản vay tái cấp vốn này; dư nợ gốc, lãi của khoản vay của quỹ tín dụng nhân dân tại ngân hàng hợp tác xã được chuyển thành dư nợ gốc, lãi của khoản vay đặc biệt và tiếp tục thực hiện theo cơ chế cho vay của ngân hàng hợp tác xã đối với quỹ tín dụng nhân dân.
4. Trường hợp nhằm bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng, trật tự, an toàn xã hội khi xử lý tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, Chính phủ quyết định việc áp dụng biện pháp đặc biệt trên cơ sở đề xuất của Ngân hàng Nhà nước và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Theo đó, việc áp dụng kiểm soát đặc biệt được thực hiện khi tổ chức tín dụng rơi vào một trong sáu trường hợp nghiêm trọng:
- Không gửi hoặc không điều chỉnh phương án khắc phục: Sau khi được can thiệp sớm, tổ chức tín dụng buộc phải xây dựng phương án phục hồi. Nếu không gửi hoặc không sửa theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước, đây là dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự thiếu hợp tác hoặc bất lực trong quản trị.
- Không thực hiện được phương án khắc phục: Dù đã cam kết, nhưng tổ chức tín dụng không có khả năng triển khai giải pháp đã đề ra. Điều này cho thấy tình trạng nội tại nghiêm trọng, mất kiểm soát tài chính.
- Khắc phục không hiệu quả: Nếu hết thời hạn thực hiện mà tình trạng rủi ro ban đầu không được xử lý, nghĩa là các nỗ lực can thiệp đã thất bại, nguy cơ lan rộng là rất lớn.
- Bị rút tiền hàng loạt: Đây là tình huống đặc biệt nguy hiểm. Khi khách hàng đồng loạt rút tiền vì mất niềm tin, tổ chức tín dụng mất thanh khoản và dễ đổ vỡ, kéo theo rủi ro hệ thống.
- Tỷ lệ an toàn vốn dưới 4% trong 6 tháng liên tục: Theo chuẩn Basel, tỷ lệ an toàn vốn phản ánh khả năng chống chịu rủi ro của ngân hàng. Nếu duy trì ở mức quá thấp quá lâu, ngân hàng gần như không còn khả năng tự hồi phục.
- Không thanh toán nổi các khoản nợ khi giải thể: Tổ chức tín dụng bị giải thể nhưng không trả được nợ cũng là dấu hiệu cần sự can thiệp khẩn cấp từ Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, luật cũng quy định hậu kiểm sau khi áp dụng kiểm soát đặc biệt: cổ đông, người góp vốn không được chuyển nhượng vốn, không sử dụng vốn góp làm tài sản đảm bảo; các khoản vay đặc biệt phải áp dụng cơ chế riêng; và nếu cần thiết, Chính phủ có thể ban hành thêm biện pháp đặc biệt để bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Tình huống giả định
Ngân hàng Phương Nam bị kiểm soát đặc biệt sau khi mất khả năng thanh toán
-
Khủng hoảng vì tin đồn thua lỗ đầu tư bất động sản
Tháng 3/2025, Ngân hàng TMCP Phương Nam (trụ sở chính tại TP. Hồ Chí Minh) rơi vào khủng hoảng thanh khoản nghiêm trọng khi nhiều khách hàng cá nhân đồng loạt rút tiền sau tin đồn tiêu cực về thua lỗ từ đầu tư bất động sản. Trong vòng hai tuần, lượng tiền rút lên đến hơn 12.000 tỷ đồng, tương đương 40% tổng tiền gửi cá nhân. -
Đã bị can thiệp sớm từ cuối năm 2024
Trước đó, Phương Nam đã nằm trong diện "can thiệp sớm" do vi phạm tỷ lệ an toàn vốn và tăng trưởng tín dụng vượt giới hạn. Ngân hàng Nhà nước yêu cầu xây dựng phương án khắc phục, nhưng sau ba tháng, Phương Nam không gửi đúng hạn, và cũng không điều chỉnh phù hợp khi bị nhắc nhở. -
Tỷ lệ an toàn vốn rơi xuống dưới 4%, mất khả năng thanh khoản
Tới tháng 4/2025, tỷ lệ an toàn vốn của Phương Nam giảm xuống dưới 4% và duy trì ở mức thấp trong suốt 6 tháng. Cùng lúc, tình trạng mất thanh khoản ngày càng trầm trọng, khi ngân hàng không còn đủ nguồn để trả các khoản tiền gửi đến hạn. -
Bị kiểm soát đặc biệt theo Điều 162 Luật TCTD 2024
Ngày 15/5/2025, Ngân hàng Nhà nước chính thức đưa Phương Nam vào diện kiểm soát đặc biệt, căn cứ Điều 162 Luật Các tổ chức tín dụng 2024. Quyết định nhằm bảo vệ hệ thống tài chính và người gửi tiền, đồng thời ngăn chặn đổ vỡ lan rộng. -
Thực hiện các biện pháp tái cơ cấu và kiểm soát rủi ro
Sau khi bị kiểm soát đặc biệt, toàn bộ cổ đông lớn của Phương Nam bị phong tỏa quyền chuyển nhượng cổ phần. Dư nợ vay tái cấp vốn tại NHNN chuyển thành khoản vay đặc biệt, và Ban kiểm soát đặc biệt được thành lập để rà soát, tái cơ cấu tài chính và đề xuất phương án xử lý tổng thể.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
3. Kết luận
Kiểm soát đặc biệt là cơ chế pháp lý nhằm bảo vệ hệ thống tài chính trước những nguy cơ đổ vỡ từ các tổ chức tín dụng. Một tổ chức tín dụng sẽ bị đặt vào diện kiểm soát đặc biệt nếu không còn khả năng khắc phục rủi ro sau can thiệp sớm hoặc có dấu hiệu mất an toàn như bị rút tiền hàng loạt, vốn quá thấp hoặc mất khả năng thanh toán. Khi bị kiểm soát đặc biệt, quyền tự chủ của tổ chức tín dụng sẽ bị giới hạn để tạo điều kiện phục hồi dưới sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước.