Khi người lao động không may gặp tai nạn trong quá trình làm việc, bên cạnh việc điều trị và phục hồi sức khỏe, các khoản bồi thường và trợ cấp từ doanh nghiệp hoặc bảo hiểm là yếu tố rất quan trọng. Trong số đó, tiền bồi thường tai nạn lao động là khoản thu nhập đặc thù và được pháp luật quy định rõ về việc có phải nộp thuế thu nhập cá nhân hay không. Ngoài ra, người lao động nếu bị suy giảm khả năng lao động hoặc tử vong do tai nạn còn có thể được hưởng trợ cấp theo các điều kiện và nguyên tắc cụ thể.
1. Tiền bồi thường tai nạn lao động có phải nộp thuế thu nhập cá nhân không?
Khoản 3 Điều 12 Thông tư 92/2015/TT-BTC quy định như sau:
Điều 12. Sửa đổi, bổ sung Điều 3 Thông tư số 111/2013/TT-BTC như sau:
n) Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe; tiền bồi thường tai nạn lao động; tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; các khoản bồi thường Nhà nước và các khoản bồi thường khác theo quy định của pháp luật. Cụ thể trong một số trường hợp như sau:
...
n.2) Thu nhập từ tiền bồi thường tai nạn lao động là khoản tiền người lao động nhận được từ người sử dụng lao động hoặc quỹ bảo hiểm xã hội do bị tai nạn trong quá trình tham gia lao động. Căn cứ xác định khoản bồi thường này là văn bản hoặc quyết định bồi thường của người sử dụng lao động hoặc toà án và chứng từ chi bồi thường tai nạn lao động.
...
Theo quy định trên, tiền bồi thường tai nạn lao động không thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân. Khoản tiền này được xem là một dạng chi trả bù đắp thiệt hại cho người lao động khi bị tai nạn trong quá trình làm việc, có thể đến từ người sử dụng lao động, bảo hiểm xã hội, hoặc bản án/quyết định của tòa án.
Mức miễn thuế không phụ thuộc vào số tiền ít hay nhiều, mà phụ thuộc vào bản chất của khoản chi trả – tức phải là khoản tiền bồi thường đúng nghĩa, được xác lập bằng văn bản hoặc quyết định hợp pháp. Nếu không có căn cứ rõ ràng chứng minh đây là tiền bồi thường tai nạn lao động (ví dụ: hợp đồng lao động, biên bản điều tra, quyết định chi trả), thì có thể không đủ điều kiện miễn thuế.
Việc miễn thuế đối với khoản này thể hiện tính nhân đạo và bảo vệ quyền lợi của người lao động trong những hoàn cảnh không mong muốn, đồng thời bảo đảm tính công bằng giữa thu nhập từ lao động chủ động và thu nhập từ khoản hỗ trợ do tổn thất.
Tình huống giả định
Anh Phạm Văn Lợi là công nhân cơ khí làm việc tại Khu công nghiệp Trảng Bàng, Tây Ninh. Trong quá trình lắp ráp máy vào tháng 3/2024, anh Lợi bị tai nạn nghiêm trọng do rò rỉ điện, dẫn đến bỏng nặng vùng tay. Sau điều trị và giám định y khoa, anh bị suy giảm 15% khả năng lao động.
Căn cứ vào kết quả điều tra, công ty không phát hiện lỗi kỹ thuật hay sơ suất của anh Lợi. Do đó, doanh nghiệp đã ban hành quyết định bồi thường 65 triệu đồng, kèm theo hồ sơ chứng từ đầy đủ. Khi quyết toán thuế cuối năm, anh Lợi lo ngại rằng khoản tiền này có thể bị tính vào thu nhập chịu thuế.
Phòng kế toán đã xác nhận đây là tiền bồi thường tai nạn lao động theo đúng quy định tại n.2 khoản 1 Điều 3 Thông tư 111/2013/TT-BTC, được chi trả hợp pháp, có căn cứ rõ ràng. Vì vậy, khoản thu nhập này được miễn thuế thu nhập cá nhân hoàn toàn.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Người lao động khi bị tai nạn lao động sẽ được nhận trợ cấp trong trường hợp nào?
Khoản 1 Điều 4 Thông tư 28/2021/TT-BLĐTBXH quy định như sau:
Điều 4. Trợ cấp tai nạn lao động
1. Người lao động bị tai nạn lao động làm suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên hoặc thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động được hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động, nếu nguyên nhân xảy ra tai nạn lao động hoàn toàn do lỗi của chính người lao động bị nạn gây ra (căn cứ theo kết luận của biên bản điều tra tai nạn lao động).
...
Theo quy định trên, người lao động vẫn có thể được hưởng trợ cấp tai nạn lao động ngay cả khi tai nạn là do lỗi của chính họ, miễn là có đủ điều kiện:
-
Tai nạn phải xảy ra trong quá trình lao động.
-
Có biên bản điều tra xác nhận rõ nguyên nhân và mức độ suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên (hoặc tử vong).
Trợ cấp này là khoản hỗ trợ tài chính ngoài bồi thường (nếu có), nhằm chia sẻ thiệt hại với người lao động khi họ gặp rủi ro. Đối với trường hợp suy giảm từ 81% trở lên hoặc tử vong, mức trợ cấp tối thiểu là 12 tháng tiền lương. Đối với các mức suy giảm thấp hơn, trợ cấp được tính dựa trên tỷ lệ phần trăm hoặc tra bảng quy đổi theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, nguyên tắc của chế độ này là tai nạn nào, trợ cấp riêng cho tai nạn đó, không cộng dồn giữa các vụ tai nạn xảy ra ở các thời điểm khác nhau.
Tình huống giả định
Chị Lê Thị Kim Phụng là công nhân vệ sinh công nghiệp tại một công ty dịch vụ ở quận Thủ Đức, TP.HCM. Trong lúc làm việc tại tầng 5 của một tòa nhà văn phòng, do bất cẩn không kiểm tra kỹ giày chống trượt, chị bị trượt ngã, chấn thương vùng lưng. Kết quả giám định y khoa xác định chị bị suy giảm khả năng lao động 9%.
Theo biên bản điều tra tai nạn lao động, nguyên nhân hoàn toàn do lỗi của chị Phụng (không tuân thủ quy trình kiểm tra an toàn lao động trước khi làm việc). Mặc dù vậy, công ty vẫn thực hiện báo cáo và hoàn thiện hồ sơ theo hướng dẫn tại Thông tư 28/2021/TT-BLĐTBXH.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ, cơ quan bảo hiểm xã hội tiến hành giải quyết chế độ và chi trả trợ cấp tai nạn lao động một lần cho chị Phụng. Mức trợ cấp được tính theo quy định đối với mức suy giảm 9%, tương đương khoảng 0,6 tháng lương nhân với mức lương làm căn cứ tại thời điểm xảy ra tai nạn.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Tai nạn lao động là điều không ai mong muốn nhưng có thể xảy ra trong quá trình làm việc. Khi không may gặp phải, người lao động có thể được bồi thường bằng một khoản tiền hỗ trợ từ doanh nghiệp hoặc bảo hiểm xã hội, và khoản này được miễn thuế thu nhập cá nhân theo quy định pháp luật. Ngoài ra, nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên hoặc tử vong do lỗi của chính mình, người lao động hoặc thân nhân vẫn được hưởng trợ cấp tai nạn lao động theo chế độ riêng biệt.