Lương không chỉ là nguồn thu nhập thiết yếu mà còn là thành quả xứng đáng cho mỗi giờ làm việc của người lao động. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không ít trường hợp người lao động dù đã đến kỳ nhận lương vẫn phải mỏi mòn chờ đợi, thậm chí bị nợ lương trong thời gian dài mà không nhận được bất kỳ lời giải thích nào. Vấn đề này khiến nhiều người đặt ra câu hỏi: Trả lương chậm có bị xử phạt hay không? Trợ lý luật sẽ đồng hành cùng bạn để làm rõ các quy định pháp lý hiện hành, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong những trường hợp như vậy.
1. Trả lương chậm có bị coi là vi phạm pháp luật không?
Trong thực tế, không ít người lao động rơi vào cảnh chờ lương mỏi mòn. Có khi cả tháng trời vẫn chưa được thanh toán đúng hạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và tinh thần. Điều này không chỉ khiến người lao động cảm thấy bị xem nhẹ, mà còn vi phạm các quy định pháp luật hiện hành.
Theo Điều 97 Bộ luật Lao động 2019, pháp luật quy định cụ thể về thời hạn trả lương như sau:
Điều 97. Kỳ hạn trả lương
Người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc được trả gộp do hai bên thỏa thuận nhưng không quá 15 ngày phải được trả gộp một lần.
Người lao động hưởng lương theo tháng được trả một tháng một lần hoặc nửa tháng một lần. Thời điểm trả lương do hai bên thỏa thuận và phải được ấn định vào một thời điểm có tính chu kỳ.
Người lao động hưởng lương theo sản phẩm, theo khoán được trả lương theo thỏa thuận của hai bên; nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hằng tháng được tạm ứng tiền lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.
Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.
Trả lương đúng hạn không chỉ là nghĩa vụ cơ bản của người sử dụng lao động, mà còn thể hiện sự tôn trọng đối với công sức và thời gian mà người lao động đã bỏ ra. Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định rất rõ về thời hạn thanh toán lương, đặc biệt là khi có sự chậm trễ vượt quá mốc 15 ngày.
Theo Điều 97 Bộ luật Lao động 2019, nếu vì lý do bất khả kháng (như thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng tài chính…) mà doanh nghiệp không thể trả lương đúng hạn, thì thời gian chậm trễ cũng không được quá 30 ngày. Tuy nhiên, một khi đã chậm từ 15 ngày trở lên, thì người sử dụng lao động phải trả thêm tiền lãi cho phần lương bị chậm, tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của ngân hàng tại thời điểm thanh toán.
Quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động – những người phụ thuộc vào tiền lương để chi trả sinh hoạt hàng ngày. Trong thực tế, không ít người lao động rơi vào tình trạng vay mượn, thiếu thốn, thậm chí nợ nần vì công ty chậm lương kéo dài mà không đưa ra bất kỳ giải pháp nào. Điều này ảnh hưởng không chỉ đến đời sống cá nhân, mà còn làm mất đi sự ổn định và gắn bó trong quan hệ lao động.
Không ít trường hợp, người lao động dù biết mình bị vi phạm nhưng vẫn “chịu đựng” vì sợ mất việc, không dám lên tiếng. Nhưng pháp luật cho phép họ yêu cầu thanh tra lao động can thiệp hoặc khiếu nại, tố cáo để được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Ngoài việc phải trả đủ tiền lương và tiền lãi, doanh nghiệp còn có thể bị xử phạt hành chính nếu vi phạm trên diện rộng – như được quy định chi tiết ở phần tiếp theo.
Tình huống giả định
Chị Huyền là nhân viên kế toán nội bộ tại một công ty may mặc ở Bình Dương. Theo hợp đồng lao động, lương sẽ được chuyển khoản vào ngày 5 mỗi tháng. Tuy nhiên, từ đầu năm 2025, lịch trả lương bắt đầu trễ dần mà không có bất kỳ thông báo chính thức nào từ phía công ty.
Tháng 2, chị phải chờ đến ngày 20 mới nhận được lương của tháng 1. Sang tháng 3, lương tháng 2 tiếp tục bị lùi đến tận ngày 28. Đến cuối tháng 4, dù đã gần sang tháng mới, tài khoản vẫn chưa thấy tiền lương tháng 3 chuyển về. Mỗi lần hỏi, chị chỉ nhận được câu trả lời quen thuộc từ phòng hành chính: “Chờ sếp duyệt đã, chắc vài hôm nữa sẽ có.”
Trong khi đó, các khoản chi tiêu trong gia đình vẫn phải lo đầy đủ. Chị phải ứng trước tiền học cho con, trả góp xe và mua thuốc cho mẹ đang điều trị bệnh. Tiền tích lũy gần như cạn kiệt sau vài tháng chờ lương mỏi mòn. Chị càng bức xúc hơn khi biết khối sản xuất vẫn được thanh toán tương đối đúng hạn, chỉ riêng khối văn phòng – nơi chị làm việc – thường xuyên bị “dời lịch”.
Cảm thấy bị đối xử bất công và không còn đủ kiên nhẫn, chị bắt đầu thu thập các bằng chứng liên quan như tin nhắn xác nhận ngày nhận lương thực tế, bảng sao kê tài khoản ngân hàng và tìm hiểu các quy định pháp luật về nghĩa vụ trả lương đúng hạn của người sử dụng lao động. Dù ban đầu còn ngần ngại, nhưng sau khi chứng kiến một đồng nghiệp cùng phòng nghỉ ngang vì bị nợ lương 3 tháng liên tục, chị quyết định sẽ gửi đơn kiến nghị đến cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
(Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm minh họa quy định pháp luật.)
2. Doanh nghiệp trả lương chậm có thể bị xử phạt như thế nào?
Việc chậm trả lương không chỉ gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động, mà còn là hành vi vi phạm pháp luật. Trong mối quan hệ lao động, tiền lương chính là quyền lợi cốt lõi, là nguồn thu nhập chính của phần lớn người lao động để chi trả các chi phí sinh hoạt hàng ngày, chăm lo cho gia đình và tích lũy cho tương lai. Vì thế, nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết chi trả lương theo thời hạn đã thỏa thuận, người lao động hoàn toàn có thể yêu cầu bồi thường và báo cáo với cơ quan chức năng.
Pháp luật hiện hành quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc thanh toán lương. Trường hợp vi phạm, mức xử phạt sẽ phụ thuộc vào số lượng người bị ảnh hưởng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng phải trả thêm phần lãi chậm trả dựa theo mức lãi suất ngân hàng tại thời điểm xử lý. Căn cứ được quy định tại Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP như sau:
Điều 17. Vi phạm quy định về tiền lương
2. Phạt tiền đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi: Trả lương không đúng hạn theo quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền lương cho người lao động theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm thêm giờ; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm việc vào ban đêm; không trả hoặc trả không đủ tiền lương ngừng việc cho người lao động theo quy định của pháp luật; hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động; ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định; khấu trừ tiền lương của người lao động không đúng quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền lương theo quy định cho người lao động khi tạm thời chuyển người lao động sang làm công việc khác so với hợp đồng lao động hoặc trong thời gian đình công; không trả hoặc trả không đủ tiền lương của người lao động trong những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm khi người lao động thôi việc, bị mất việc làm; không tạm ứng hoặc tạm ứng không đủ tiền lương cho người lao động trong thời gian bị tạm đình chỉ công việc theo quy định của pháp luật; không trả đủ tiền lương cho người lao động cho thời gian bị tạm đình chỉ công việc trong trường hợp người lao động không bị xử lý kỷ luật lao động theo một trong các mức sau đây:a) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 đến 10 người lao động;
b) Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 đến 50 người lao động;
c) Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 đến 100 người lao động;
d) Từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 đến 300 người lao động;
đ) Từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.5. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc người sử dụng lao động trả đủ tiền lương cộng với khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả, tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước tại thời điểm xử phạt.
Khi doanh nghiệp chậm trả lương, nhiều người lao động thường nghĩ đơn giản rằng "chắc do công ty kẹt tiền, đợi vài hôm là có". Nhưng thực tế, việc này không chỉ là chuyện nội bộ giữa người lao động và chủ sử dụng lao động, mà là một hành vi vi phạm pháp luật nếu vượt quá thời hạn được phép.
Trong quan hệ lao động, tiền lương không phải là khoản “tự nguyện” mà doanh nghiệp có thể trả sớm hay muộn tùy tiện. Đó là nghĩa vụ pháp lý, là cam kết trong hợp đồng và là nguồn sống chính của phần lớn người lao động. Khi doanh nghiệp chậm lương mà không đưa ra lý do chính đáng, hoặc cứ khất lần không rõ thời hạn, thì không chỉ ảnh hưởng đến lòng tin mà còn trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi kinh tế của người lao động. Pháp luật đã quy định rất cụ thể: Nếu việc chậm trả lương diễn ra từ 15 ngày trở lên, người sử dụng lao động bắt buộc phải trả thêm tiền lãi cho phần lương bị trễ. Và nếu để tình trạng này xảy ra trên diện rộng, ảnh hưởng đến nhiều người lao động cùng lúc, doanh nghiệp sẽ bị xử phạt hành chính, với mức phạt có thể lên đến 50 triệu đồng, tùy số lượng người bị ảnh hưởng. Vấn đề ở đây không chỉ nằm ở con số tiền phạt, mà nằm ở hệ quả dây chuyền. Một công ty chậm lương liên tục sẽ khiến người lao động mất tinh thần, năng suất giảm sút, nhân sự bất ổn, thậm chí có người nghỉ ngang hoặc khiếu kiện. Với những doanh nghiệp đang cần giữ chân nhân tài, chỉ một lần trễ lương cũng có thể tạo ra làn sóng rời bỏ.
Chưa kể, hành vi này còn kéo theo những hệ lụy pháp lý khác như chậm trích nộp bảo hiểm xã hội, làm sai lệch báo cáo tài chính, ảnh hưởng đến khả năng vay vốn ngân hàng hoặc tham gia các dự án lớn. Đó là chưa nói đến việc mất uy tín với đối tác và khách hàng khi thông tin bị lan truyền.
Do đó, với những doanh nghiệp đang gặp khó khăn tài chính, cách hành xử đúng đắn không phải là lặng lẽ “giam lương”, mà là trao đổi minh bạch, thống nhất phương án thanh toán và đảm bảo không vi phạm mốc thời gian luật định. Còn nếu đã chậm quá 15 ngày, thì ngoài việc trả đủ lương, hãy thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bồi thường tiền lãi để thể hiện sự tôn trọng tối thiểu với người lao động của mình.
Tình huống giả định
Anh Lâm là kỹ sư thiết kế làm việc cho một công ty xây dựng quy mô vừa tại Hà Nội. Theo hợp đồng lao động, công ty cam kết trả lương cố định vào ngày 10 hàng tháng. Thời gian đầu, việc thanh toán khá đều đặn. Nhưng từ giữa năm 2024, công ty bắt đầu gặp khó khăn tài chính do chậm trễ trong việc thanh toán từ các chủ đầu tư.
Từ tháng 9, lương tháng 8 của anh Lâm bị trả chậm đến tận ngày 25. Tháng 10 tiếp tục trễ đến gần cuối tháng. Dù ban đầu cảm thông, nhưng đến tháng 11 và 12 thì lương hoàn toàn bị nợ. Khi anh Lâm hỏi phòng nhân sự, chỉ nhận được những câu trả lời mơ hồ như: “Giám đốc đang xoay tiền” hoặc “Đợi giải ngân từ dự án mới”. Trong khi đó, các vị trí cấp quản lý vẫn được chi trả đầy đủ và đúng hạn.
Sau Tết Nguyên đán 2025, anh Lâm quay lại làm việc mà vẫn chưa được nhận lương 2 tháng cuối năm trước. Anh đã nhiều lần gửi email đề nghị thanh toán, nhưng không nhận được phản hồi rõ ràng. Cuối cùng, anh quyết định gửi đơn kiến nghị lên Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội quận để yêu cầu can thiệp.
Sau khi tiếp nhận phản ánh, đoàn kiểm tra được cử đến làm việc với công ty. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng xác định công ty đã trả lương chậm từ 15 ngày trở lên cho hơn 30 nhân viên, vi phạm quy định tại Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP. Ngoài việc buộc công ty trả đủ số tiền lương chậm kèm tiền lãi theo lãi suất ngân hàng, công ty còn bị xử phạt hành chính từ 10 đến 20 triệu đồng, tương ứng với số lượng người lao động bị ảnh hưởng.
Từ đó, công ty buộc phải điều chỉnh lại quy trình trả lương và cam kết không tái phạm. Riêng anh Lâm, sau khi nhận đủ lương, cũng cân nhắc tìm môi trường làm việc khác có sự ổn định hơn về tài chính.
(Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm minh họa quy định pháp luật.)
Kết luận
Người sử dụng lao động chậm trả lương cho người lao động từ 15 ngày trở lên mà không có lý do chính đáng sẽ phải trả thêm một khoản tiền, gọi là tiền lãi trên số tiền chậm trả. Mức lãi suất được tính theo lãi suất vay do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm trả lương. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể bị xử phạt hành chính với mức tiền phạt tùy theo số lượng người bị ảnh hưởng và thời gian chậm trả, thậm chí bị đình chỉ hoạt động nếu vi phạm nghiêm trọng hoặc kéo dài.