Việc tổ chức khám sức khỏe định kỳ là một phần quan trọng trong bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của người lao động. Tùy theo tính chất công việc và nhóm đối tượng cụ thể, người lao động sẽ được khám sức khỏe với tần suất khác nhau trong năm. Ngoài ra, trong quá trình khám nếu có dấu hiệu nghi ngờ bệnh, cơ sở y tế có thể chỉ định thực hiện thêm các kỹ thuật cận lâm sàng nhằm hỗ trợ chẩn đoán và đánh giá chính xác tình trạng sức khỏe.
1. Người lao động khi nào được khám cận lâm sàng?
Khoản 5 Điều 36 Thông tư 32/2023/TT-BYT quy định:
Điều 36. Nội dung khám sức khỏe
...
5. Phải khám đầy đủ các nội dung theo từng chuyên khoa. Trường hợp khó cần hội chẩn hoặc chỉ định làm cận lâm sàng để chẩn đoán xác định và mức độ bệnh, tật làm cơ sở phân loại sức khoẻ.
...
Khám cận lâm sàng là những xét nghiệm hoặc kỹ thuật hỗ trợ nhằm giúp bác sĩ có thêm cơ sở đánh giá tình trạng sức khỏe của người lao động. Không phải mọi trường hợp khám sức khỏe đều phải làm cận lâm sàng, mà chỉ khi có dấu hiệu bất thường hoặc nghi ngờ bệnh lý cần xác minh, bác sĩ mới chỉ định thực hiện.
Các kỹ thuật cận lâm sàng thường bao gồm xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, chụp X-quang, siêu âm, điện tâm đồ, nội soi... Kết quả từ những kỹ thuật này giúp bác sĩ phân loại sức khỏe đồng thời phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe tiềm ẩn để người lao động được điều trị kịp thời.
Việc thực hiện cận lâm sàng phải được tiến hành tại cơ sở y tế có đủ điều kiện chuyên môn, có trang thiết bị phù hợp, và do bác sĩ chỉ định cụ thể. Các kết luận từ cận lâm sàng sẽ được tổng hợp cùng với kết quả khám lâm sàng để đánh giá chính xác tình trạng sức khỏe tổng thể của người được khám.
Tình huống giả định:
Người lao động được chỉ định làm cận lâm sàng trong khám sức khỏe định kỳ
Anh Nguyễn Văn Duy (38 tuổi, công nhân tại Khu công nghiệp Hòa Khánh, TP. Đà Nẵng) tham gia khám sức khỏe định kỳ tại doanh nghiệp vào tháng 4/2024. Trong quá trình khám nội, bác sĩ phát hiện anh có biểu hiện tim đập nhanh bất thường và hơi khó thở khi vận động nhẹ. Để đánh giá kỹ hơn, bác sĩ chỉ định anh làm thêm điện tâm đồ và siêu âm tim.
Sau khi thực hiện các chỉ định cận lâm sàng, kết quả cho thấy anh Duy bị rối loạn nhịp tim nhẹ và được khuyến cáo theo dõi thêm. Nhờ có chỉ định đúng lúc, anh Duy biết được tình trạng sức khỏe của mình để kịp thời điều chỉnh lối sống và tái khám chuyên khoa tim mạch.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Người lao động được khám sức khỏe bao nhiêu lần trong năm?
Khoản 1 Điều 21 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 quy định:
Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015
Điều 21. Khám sức khỏe và điều trị bệnh nghề nghiệp cho người lao động
1. Hằng năm, người sử dụng lao động phải tổ chức khám sức khỏe ít nhất một lần cho người lao động; đối với người lao động làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, người lao động là người khuyết tật, người lao động chưa thành niên, người lao động cao tuổi được khám sức khỏe ít nhất 06 tháng một lần.
2. Khi khám sức khỏe theo quy định tại khoản 1 Điều này, lao động nữ phải được khám chuyên khoa phụ sản, người làm việc trong môi trường lao động tiếp xúc với các yếu tố có nguy cơ gây bệnh nghề nghiệp phải được khám phát hiện bệnh nghề nghiệp.
3. Người sử dụng lao động tổ chức khám sức khỏe cho người lao động trước khi bố trí làm việc và trước khi chuyển sang làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hơn hoặc sau khi bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đã phục hồi sức khỏe, tiếp tục trở lại làm việc, trừ trường hợp đã được Hội đồng y khoa khám giám định mức suy giảm khả năng lao động.
4. Người sử dụng lao động tổ chức khám sức khỏe cho người lao động, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo đảm yêu cầu, điều kiện chuyên môn kỹ thuật.
5. Người sử dụng lao động đưa người lao động được chẩn đoán mắc bệnh nghề nghiệp đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đủ điều kiện chuyên môn kỹ thuật để điều trị theo phác đồ điều trị bệnh nghề nghiệp do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định.
6. Chi phí cho hoạt động khám sức khỏe, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp, điều trị bệnh nghề nghiệp cho người lao động do người sử dụng lao động chi trả quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều này được hạch toán vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế theo Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và hạch toán vào chi phí hoạt động thường xuyên đối với cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp không có hoạt động dịch vụ.
Khám sức khỏe định kỳ là nghĩa vụ của người sử dụng lao động nhằm bảo vệ sức khỏe và quyền lợi cho người lao động trong suốt quá trình làm việc. Theo quy định, tất cả người lao động đều được khám sức khỏe ít nhất một lần mỗi năm, do doanh nghiệp tổ chức và chi trả toàn bộ chi phí.
Tuy nhiên, đối với những người làm việc trong điều kiện đặc biệt như môi trường độc hại, công việc có nguy cơ cao, người chưa thành niên, người cao tuổi hoặc người khuyết tật thì tần suất khám được tăng lên tối thiểu 2 lần mỗi năm (tức mỗi 6 tháng một lần). Việc này nhằm phát hiện sớm các bệnh nghề nghiệp và theo dõi sát hơn tình trạng sức khỏe của người lao động.
Ngoài khám sức khỏe định kỳ, người sử dụng lao động còn phải tổ chức khám sức khỏe trước khi tuyển dụng, trước khi chuyển người lao động sang vị trí nặng nhọc hơn, hoặc sau khi điều trị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Tình huống giả định:
Công ty tổ chức khám sức khỏe 2 lần/năm cho nhóm lao động đặc thù
Công ty Cổ phần Cầu đường An Phú tại tỉnh Lâm Đồng có gần 400 công nhân làm việc trực tiếp tại các công trình xây dựng đường giao thông. Do công việc thường xuyên ngoài trời, tiếp xúc bụi, nóng và mang vác nặng, doanh nghiệp tổ chức khám sức khỏe định kỳ 6 tháng một lần cho toàn bộ công nhân theo đúng quy định tại Luật An toàn, vệ sinh lao động.
Trong đợt khám tháng 5/2024, một số công nhân được phát hiện có dấu hiệu suy giảm hô hấp nhẹ do tiếp xúc bụi đá kéo dài, được bác sĩ khuyến cáo giảm cường độ công việc và điều trị sớm. Nhờ tổ chức khám sức khỏe định kỳ đúng hạn, công ty kịp thời điều chỉnh bố trí lao động phù hợp, vừa bảo vệ người lao động vừa giảm thiểu nguy cơ phát sinh bệnh nghề nghiệp.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
3. Kết luận
Người lao động có quyền được khám sức khỏe định kỳ mỗi năm để theo dõi và bảo vệ sức khỏe trong suốt quá trình làm việc. Tùy tính chất công việc và đối tượng cụ thể, tần suất khám có thể là một hoặc hai lần trong năm. Trong quá trình khám, nếu cần thiết, bác sĩ sẽ chỉ định thêm các kỹ thuật cận lâm sàng để đánh giá chính xác tình trạng sức khỏe và đưa ra hướng tư vấn phù hợp.