Người làm chứng là người đóng vai trò quan trọng giúp làm rõ sự thật trong vụ án hình sự. Nếu không có mặt theo giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng, người làm chứng có thể bị xử lý theo quy định pháp luật. Đây là biện pháp cần thiết để đảm bảo quá trình tố tụng diễn ra khách quan, đúng thời hạn.
1. Người làm chứng vắng mặt tại phiên toà xử lý như thế nào?
Quy định này được nêu cụ thể tại điểm Điều 66 và Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 như sau:
Điều 66. Người làm chứng
...
4. Người làm chứng có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trường hợp cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải;
...
5. Người làm chứng khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự.
Điều 293. Sự có mặt của người làm chứng
1. Người làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Nếu người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra thì chủ tọa phiên tòa công bố những lời khai đó. Nếu người làm chứng về những vấn đề quan trọng của vụ án vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
2. Trường hợp người làm chứng được Tòa án triệu tập nhưng cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể quyết định dẫn giải theo quy định của Bộ luật này.
Pháp luật quy định rõ người làm chứng có nghĩa vụ phải có mặt khi được triệu tập. Nếu họ cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hay trở ngại khách quan thì cơ quan có thẩm quyền sẽ tiến hành gửi giấy triệu tập nhiều lần. Nếu người làm chứng vẫn không đến và không có lý do chính đáng thì sẽ áp dụng biện pháp dẫn giải. “Dẫn giải” ở đây là một biện pháp cho phép cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế đưa người làm chứng đến nơi lấy lời khai hoặc đến phiên tòa nếu hành vi vắng mặt của họ gây ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án. Quyết định dẫn giải sẽ do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Hội đồng xét xử ban hành.
Tình huống giả định
Anh Trần Đức Thịnh là người chứng kiến trực tiếp một vụ đánh nhau gây thương tích nghiêm trọng giữa hai nhóm thanh niên trước cổng quán karaoke tại TP. Huế. Sau khi sự việc xảy ra, anh Thịnh được Cơ quan Cảnh sát điều tra triệu tập để lấy lời khai với tư cách người làm chứng. Tuy nhiên, đến ngày xét xử, mặc dù đã nhận được giấy triệu tập hợp lệ từ Tòa án nhân dân quận, anh Thịnh vẫn cố tình vắng mặt và cũng không liên hệ để trình bày lý do. Việc anh Thịnh không có mặt khiến việc xét hỏi một số tình tiết mấu chốt bị gián đoạn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình xét xử.
Hội đồng xét xử sau khi hội ý đã ra quyết định dẫn giải anh Thịnh đến phiên tòa theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Cơ quan công an được phân công thi hành lệnh dẫn giải và buộc anh Thịnh phải có mặt trong phiên xét xử tiếp theo.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
2. Nhóm người không được yêu cầu làm chứng trong tố tụng hình sự
Quy định này được nêu cụ thể tại Điều 49 và Điều 66 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 như sau:
Điều 66. Người làm chứng
...
2. Những người sau đây không được làm chứng:
a) Người bào chữa của người bị buộc tội;
b) Người do nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết liên quan nguồn tin về tội phạm, về vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.
...
Điều 49. Các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:
...
2. Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó;
...
Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định rõ một số trường hợp ngoại lệ không được phép làm chứng nhằm đảm bảo khách quan tố tụng, bảo vệ quyền cá nhân và tránh xung đột lợi ích. Cụ thể:
1. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán) không thể đồng thời làm chứng trong vụ án mà họ tham gia xử lý.
2. Người bào chữa (luật sư, trợ giúp viên pháp lý…) không được làm chứng trong vụ án mà họ đang bảo vệ cho bị can, bị cáo.
3. Người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, không có khả năng nhận thức tình tiết vụ án hoặc không thể khai báo đúng đắn theo luật định.
Tình huống giả định
Trong vụ án cố ý gây thương tích, ông Trần Quốc Việt – một cán bộ điều tra từng tham gia lập biên bản hiện trường – được phía bị hại đề nghị triệu tập làm nhân chứng. Tuy nhiên, vì ông Việt là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong vụ án nên không thể làm chứng theo quy định tại Điều 49 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
Tòa án sau đó từ chối yêu cầu triệu tập, nhằm đảm bảo nguyên tắc khách quan trong tố tụng. Việc buộc một cán bộ đang giữ vai trò điều tra đồng thời làm người làm chứng sẽ gây xung đột vị trí và vi phạm quy định pháp luật hiện hành.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
3. Kết luận
Người làm chứng có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập và có thể bị dẫn giải nếu cố ý vắng mặt không lý do chính đáng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp như trở ngại khách quan hoặc thuộc diện được miễn khai báo, họ có thể được vắng mặt hoặc từ chối làm chứng theo luật. Việc này giúp bảo đảm quá trình tố tụng diễn ra đúng luật nhưng vẫn tôn trọng quyền cá nhân.