Tội gây rối trật tự công cộng bị phạt bao nhiêu theo pháp luật hiện hành?

Tội gây rối trật tự công cộng bị phạt bao nhiêu theo pháp luật hiện hành?

Bạn có biết tội gây rối trật tự công cộng có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt lên đến 7 năm tù? Liệu người phạm tội có thể hưởng án treo? Cùng Trợ Lý Luật tìm hiểu quy định mới nhất.

Việc giữ gìn trật tự công cộng là yếu tố quan trọng để bảo đảm an ninh, an toàn xã hội. Tội gây rối trật tự công cộng cũng được xem là hành vi vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Bài viết dưới đây sẽ giải thích chi tiết về quy định, khung hình phạt, khả năng hưởng án treo và mức xử phạt hành chính đối với tội này theo Bộ luật Hình sự hiện hành.


1. Thế nào là Tội gây rối trật tự công cộng? 

Trả lời vắn tắt: Người có hành vi gây rối trật tự công cộng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015. Nếu vi phạm khoản 2 Điều này, hình phạt có thể từ 2 năm đến 7 năm tù, tùy theo mức độ vi phạm.

Thế nào là gây rối trật tự công cộng?

Tội gây rối trật tự công cộng là hành vi gây ra sự mất trật tự, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội, được quy định cụ thể tại Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:

Bộ luật Hình sự 2015

Điều 318. Tội gây rối trật tự công cộng
1. Người nào gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
   a) Có tổ chức;
   b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;
   c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
   d) Xúi giục người khác gây rối;
   đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
   e) Tái phạm nguy hiểm.

Theo Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015, hành vi gây rối trật tự công cộng là hành vi làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội và có thể bị xử phạt từ phạt tiền đến phạt tù, tùy vào mức độ nghiêm trọng. Nếu hành vi gây rối có tính chất đặc biệt nguy hiểm, như có tổ chức, sử dụng vũ khí, gây cản trở giao thông nghiêm trọng, hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 318, với khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm tù.

Bản chất của tội danh này là xâm phạm đến trật tự công cộng, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của cộng đồng, gây mất an toàn và gây hoang mang cho người dân. Hành vi này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, từ việc gây rối trong khu dân cư, trên đường phố, tại cơ quan nhà nước, hoặc các địa điểm công cộng khác.

Người phạm tội có thể bị xử phạt nặng hơn nếu có tình tiết tăng nặng, chẳng hạn như gây hậu quả nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm, hoặc cố ý gây thương tích cho người khác trong quá trình gây rối. Ngược lại, nếu chưa gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hoặc có tình tiết giảm nhẹ, mức phạt có thể được cân nhắc ở mức thấp hơn.

Tình huống giả định

Vào tối ngày 15/3/2024, tại khu vực trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, một nhóm thanh niên khoảng 10 người tụ tập trên đường, dùng loa công suất lớn để mở nhạc, chửi bới và gây ồn ào. Khi người dân xung quanh lên tiếng phản ánh, nhóm này không dừng lại mà còn cầm gậy gộc đập phá một số cửa hàng ven đường.

Lực lượng công an phường đã có mặt để yêu cầu nhóm này giải tán. Tuy nhiên, một số đối tượng trong nhóm có hành vi chống đối, thậm chí tấn công lực lượng chức năng. Hành vi này đã làm gián đoạn giao thông trong khu vực suốt nhiều giờ đồng hồ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự.

Sau khi điều tra, cơ quan chức năng xác định một số đối tượng trong nhóm đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trước đó. Căn cứ vào tính chất vụ việc và thiệt hại gây ra, những đối tượng này bị khởi tố về tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015, với mức hình phạt có thể lên đến 7 năm tù.

(Đây chỉ là tình huống giả định nhằm minh họa cho quy định pháp luật về gây rối trật tự công cộng)


2. Người thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 Điều 318 có được hưởng án treo không?

Trả lời vắn tắt: Theo Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP, người phạm tội theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 có thể được hưởng án treo nếu đáp ứng các điều kiện như phạt tù không quá 3 năm, có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràngkhông cần thiết phải chấp hành án tù giam.

Người thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng theo khoản 2 Điều 318 có được hưởng án treo không?

Tội gây rối trật tự công cộng được quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015, trong đó khoản 2 quy định khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù đối với các hành vi có tình tiết tăng nặng. Do đó, một vấn đề pháp lý đặt ra là liệu người phạm tội theo khoản 2 Điều 318 có thể được hưởng án treo hay không. Để trả lời câu hỏi này, cần đối chiếu với các điều kiện hưởng án treo theo Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (được sửa đổi bởi Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP).

Quy định về tội gây rối trật tự công cộng như sau:

Bộ luật Hình sự 2015

Điều 318. Tội gây rối trật tự công cộng
1. Người nào gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này, hoặc đã bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
   a) Có tổ chức;
   b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;
   c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
   d) Xúi giục người khác gây rối;
   đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
   e) Tái phạm nguy hiểm.

Quy định về điều kiện hưởng án treo như sau: 

Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi bởi Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP)  

Điều 2. Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo
1. Bị xử phạt tù không quá 03 năm.  
2. Có nhân thân tốt, chấp hành đầy đủ nghĩa vụ công dân.  
3. Có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong đó có 01 tình tiết theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.  
4. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.  
5. Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để giám sát, giáo dục.  
6. Xét thấy không cần thiết phải chấp hành án tù mà có thể tự cải tạo.  

Thứ nhất, xét về điều kiện mức hình phạt: Điều kiện tiên quyết để hưởng án treo là bị tuyên mức án không quá 03 năm tù. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015, người phạm tội có thể bị tuyên mức án từ 02 năm đến 07 năm tù. Như vậy, nếu người phạm tội bị tuyên mức án từ 03 năm tù trở lên, họ không thể hưởng án treo. Trường hợp mức án dưới 03 năm tù, cần tiếp tục xem xét các điều kiện khác để xác định khả năng được hưởng án treo.

Thứ hai, xét về điều kiện thân nhân và tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội phải có nhân thân tốt, tức là ngoài lần phạm tội này, họ chưa có tiền án, tiền sự nghiêm trọng và chấp hành tốt pháp luật. Đồng thời, cần có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, chẳng hạn như:

  • Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

  • Tự nguyện bồi thường thiệt hại.

  • Gia đình có công với cách mạng.

  • Người phạm tội là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Nếu có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 (ví dụ: tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tổ chức...), thì số tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng ít nhất 02 tình tiết.

Cuối cùng, xét về điều kiện nơi cư trú và khả năng tự cải tạo: Người phạm tội phải có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để chính quyền địa phương hoặc tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục. Ngoài ra, Tòa án phải nhận định rằng không cần thiết phải buộc chấp hành án tù vì người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Tình huống giả định

Nguyễn Văn An, 25 tuổi, là nhân viên tại một quán karaoke ở thành phố Vinh. Tối ngày 15/02/2024, sau khi tan ca, An cùng nhóm bạn khoảng 10 người tụ tập ăn nhậu. Trong quá trình uống rượu, cả nhóm xảy ra mâu thuẫn với một nhóm thanh niên khác cũng đang ăn nhậu gần đó. Hai bên lời qua tiếng lại, rồi dẫn đến xô xát.

Do có hơi men trong người, nhóm của An càng trở nên kích động. Một số người trong nhóm dùng gậy gộc, chai bia đập phá bàn ghế, ném đồ đạc xuống đường, gây hỗn loạn. An cũng tham gia vào hành vi này, cầm một chiếc ghế ném về phía đối phương nhưng trúng vào một xe máy đỗ gần đó, khiến xe bị hư hỏng nặng. Trong lúc hỗn loạn, An và một số người bạn tiếp tục chạy xuống lòng đường, chặn xe ô tô qua lại và la hét, gây ách tắc giao thông nghiêm trọng trên tuyến phố chính.

Cảnh sát ngay sau đó có mặt để vãn hồi trật tự. Khi lực lượng chức năng yêu cầu giải tán, một số đối tượng vẫn tiếp tục gây rối. Riêng An, do bị kích động, đã có hành vi xô đẩy và dùng tay đánh một chiến sĩ công an khi người này cố gắng can ngăn. Toàn bộ sự việc được camera an ninh và người dân ghi lại.

Sau khi bị bắt giữ, An thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi của mình. Điều tra cho thấy An chưa có tiền án, tiền sự, có công việc ổn định và được chính quyền địa phương đánh giá là người có nhân thân tốt. Gia đình An cũng chủ động bồi thường thiệt hại cho chủ xe máy bị hư hỏng và gửi lời xin lỗi đến lực lượng chức năng. Trong quá trình xét xử, Tòa án xác định hành vi của An thuộc khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 do có tình tiết tăng nặng là "gây cản trở giao thông nghiêm trọng" và "hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng".

Tuy nhiên, xét thấy An có ba tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại và gia đình có công với cách mạng, Tòa án quyết định tuyên phạt An mức án hai năm sáu tháng tù. Vì mức án dưới ba năm và An có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng, Tòa án cho phép An hưởng án treo với thời gian 5 năm.

Trường hợp nếu An bị tuyên mức án ba năm tù hoặc cao hơn, dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thì theo quy định của Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP (sửa đổi bởi Nghị quyết 01/2022/NQ-HĐTP), An vẫn không đủ điều kiện để hưởng án treo và phải chấp hành án tù theo quyết định của Tòa án.

(Đây là tình huống giả định, không phải vụ án có thật, chỉ mang tính chất minh họa)


3. Mức xử phạt hành chính đối với hành vi gây rối trật tự công cộng

Trả lời vắn tắt: Hành vi gây rối trật tự công cộng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 144/2021/NĐ-CP, với mức phạt tiền lên đến 10 triệu đồng tùy theo hành vi vi phạm.

Mức xử phạt hành chính đối với hành vi gây rối trật tự công cộng

Ngoài trách nhiệm hình sự, những người thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm vẫn có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại Nghị định 144/2021/NĐ-CP.

Nghị định 144/2021/NĐ-CP

Điều 7. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

  1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
    a) Gây mất trật tự ở khu dân cư, nơi công cộng;
    b) Ném chất bẩn vào người khác hoặc tài sản của người khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

  2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
    a) Gây rối hoặc cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức;
    b) Lôi kéo, kích động người khác gây mất trật tự công cộng;
    c) Tụ tập đông người gây mất an ninh, trật tự ở khu vực công cộng.

  3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi:
    a) Gây rối trật tự công cộng có tổ chức;
    b) Xâm phạm hoặc ném vật gây hại vào trụ sở cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp;
    c) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để gây rối trật tự công cộng.

Hành vi gây rối trật tự công cộng là những hành vi làm mất ổn định trật tự xã hội tại khu vực công cộng, ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của người dân. Những hành vi này có thể bao gồm: la hét, đập phá, gây ồn ào quá mức, tụ tập đông người gây ách tắc giao thông, tấn công người thi hành công vụ hoặc kích động người khác gây rối.

Theo quy định pháp luật, nếu hành vi gây rối chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì người vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính thay vì truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là một biện pháp răn đe nhẹ hơn, áp dụng với những hành vi gây mất trật tự nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa có yếu tố nguy hiểm cao đối với xã hội.

Cụ thể, theo Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, mức xử phạt hành chính đối với hành vi gây rối trật tự công cộng được chia thành ba mức chính:

  • Mức nhẹ nhất: Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng, áp dụng cho các hành vi như gây mất trật tự ở khu dân cư, ném chất bẩn vào người khác hoặc tài sản nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Mức trung bình: Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng, áp dụng với các hành vi cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, tụ tập đông người gây mất trật tự, lôi kéo, kích động người khác gây rối.

  • Mức cao nhất: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, áp dụng với hành vi gây rối trật tự có tổ chức, tấn công hoặc ném vật gây hại vào trụ sở cơ quan, tổ chức, dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để gây rối.

Như vậy, mức phạt sẽ phụ thuộc vào tính chất và mức độ vi phạm. Nếu hành vi chỉ gây ảnh hưởng nhỏ, chưa gây hậu quả lớn, mức phạt sẽ thấp hơn. Ngược lại, nếu hành vi có dấu hiệu gây nguy hiểm cao hơn cho xã hội, mức xử phạt cũng sẽ nghiêm khắc hơn để đảm bảo tính răn đe.

Tình huống giả định

Vào tối ngày 10/3/2024, tại một khu chợ đêm ở thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn Bình cùng một nhóm bạn tụ tập uống bia ngay trên vỉa hè. Trong quá trình ăn uống, nhóm này mở loa công suất lớn, la hét, chửi bới khiến nhiều người xung quanh khó chịu. Một số tiểu thương và người dân nhắc nhở nhưng Bình và nhóm bạn không dừng lại mà còn cố tình gây ồn ào hơn.

Khoảng 23h30, khi lực lượng chức năng đến kiểm tra, nhóm của Bình vẫn không chấp hành mà còn có hành vi thách thức, cự cãi với lực lượng công an. Đặc biệt, Bình còn lớn tiếng lôi kéo những người xung quanh tụ tập lại để phản đối việc bị nhắc nhở.

Sau khi xác minh, lực lượng chức năng xác định hành vi của Bình và nhóm bạn đã gây mất trật tự công cộng, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Kết quả, mỗi người trong nhóm bị xử phạt 3.000.000 đồng vì hành vi "lôi kéo, kích động người khác gây mất trật tự công cộng".

Trường hợp nếu nhóm của Bình có hành vi tấn công người thi hành công vụ, sử dụng vũ khí hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015 thay vì chỉ bị xử phạt hành chính.

(Đây là tình huống giả định nhằm minh họa cho quy định pháp luật.)


Kết luận

Gây rối trật tự công cộng là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo mức độ vi phạm. Người phạm tội có thể bị phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù lên đến 7 năm nếu hành vi gây hậu quả nghiêm trọng. Trong một số trường hợp, người bị kết án tù vẫn có thể được hưởng án treo nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.

Do đó, mỗi cá nhân cần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật, tránh các hành vi gây mất trật tự công cộng, đồng thời nắm rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong các tình huống pháp lý liên quan. Điều này không chỉ giúp bảo vệ bản thân mà còn góp phần duy trì an ninh, trật tự chung trong xã hội.

Gia Nghi
Biên tập

Sinh viên khoa Chất lượng cao, chuyên ngành Dân sự - Thương mại - Quốc tế tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Mình luôn cố gắng học hỏi và trau dồi kiến thức để hiểu rõ hơn về pháp luật và cách á...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Choose your rating score:
Name (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Rating content