Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, người làm chứng là một trong những chủ thể quan trọng giúp Tòa án làm rõ các tình tiết liên quan đến nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, không phải ai cũng được xem là người làm chứng hợp pháp theo quy định. Lời khai của người làm chứng có được công nhận là chứng cứ hay không còn phụ thuộc vào hình thức thể hiện lời khai theo luật định.
1. Người làm chứng trong tố tụng dân sự là ai?
Điều 77 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:
Điều 77. Người làm chứng
Người biết các tình tiết có liên quan đến nội dung vụ việc được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Người mất năng lực hành vi dân sự không thể là người làm chứng.
Trong tố tụng dân sự, người làm chứng giữ vai trò giúp Tòa án xác minh sự thật khách quan của vụ việc thông qua những gì họ biết được. Theo quy định tại Điều 77 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, người làm chứng phải là người có kiến thức, thông tin liên quan đến vụ việc đang được xét xử và được đương sự đề nghị, Tòa án triệu tập. Họ không tự động tham gia mà cần có quyết định triệu tập chính thức từ cơ quan tố tụng.
Người làm chứng có thể là bất kỳ ai (kể cả người thân, hàng xóm, người từng tham gia một phần sự việc) miễn là họ có khả năng cung cấp lời khai trung thực, khách quan, giúp Tòa án nhận định đúng bản chất vụ án. Tuy nhiên, một điều kiện bắt buộc là người làm chứng phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Những người mất năng lực hành vi dân sự như người bị bệnh tâm thần nặng, người không nhận thức được hành vi của mình hoặc đang trong tình trạng mất kiểm soát hành vi theo phán quyết của Tòa án, sẽ không được xem là người làm chứng hợp lệ.
Tình huống giả định:
Một người mất năng lực hành vi dân sự không được Tòa án chấp nhận làm chứng
Bà Trần Thị Hằng (62 tuổi, ngụ tại huyện Củ Chi, TP.HCM) là hàng xóm lâu năm của ông Nguyễn Văn Đoàn và bà Nguyễn Thị Mai – hai bên đang có tranh chấp về quyền sử dụng một phần lối đi chung. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Đoàn đề nghị Tòa án triệu tập bà Hằng làm người làm chứng với lý do bà từng sống ở đó từ trước năm 1995 và biết rõ lịch sử hình thành lối đi.
Tuy nhiên, trong hồ sơ do Tòa án thu thập được, bà Hằng hiện đang được giám hộ bởi con gái do đã bị Tòa án ra quyết định tuyên mất năng lực hành vi dân sự cách đây hai năm vì bệnh Alzheimer giai đoạn nặng. Dù bà Hằng vẫn có lúc tỉnh táo và nói chuyện bình thường, nhưng về mặt pháp lý, bà không đủ điều kiện để tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng. Do đó, Tòa án từ chối ghi nhận lời khai của bà, đồng thời yêu cầu đương sự cung cấp nhân chứng khác có đủ năng lực hành vi dân sự theo luật định.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
2. Lời khai của người làm chứng có được xem là chứng cứ không?
Điều 94, 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:
Điều 94. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử.
2. Vật chứng.
3. Lời khai của đương sự.
4. Lời khai của người làm chứng.
5. Kết luận giám định.
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
7. Kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản.
8. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.
9. Văn bản công chứng, chứng thực.
10. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
Điều 95. Xác định chứng cứ
1. Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
2. Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
3. Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
4. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
5. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên tòa.
6. Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
7. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
8. Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
9. Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
10. Văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
11. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định được xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ hợp pháp giúp Tòa án xác minh sự thật vụ việc. Tuy nhiên, không phải mọi lời khai đều tự động được công nhận là chứng cứ. Để lời khai có giá trị pháp lý, phải đáp ứng các điều kiện về hình thức theo quy định tại Điều 95.
Cụ thể, lời khai cần được thể hiện bằng văn bản có chữ ký rõ ràng, hoặc được ghi âm, ghi hình, lưu trữ bằng thiết bị điện tử có thể kiểm tra được nguồn gốc. Ngoài ra, nếu người làm chứng khai báo trực tiếp tại phiên tòa, lời khai đó cũng có thể được công nhận là chứng cứ nếu được ghi nhận đầy đủ trong biên bản phiên tòa. Điều này bảo đảm tính minh bạch, khách quan và có căn cứ khi đánh giá giá trị lời khai.
Một điểm quan trọng là nội dung lời khai phải phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ việc và không mâu thuẫn với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ. Trong nhiều trường hợp, lời khai chỉ mang tính tham khảo nếu không có căn cứ bổ trợ đi kèm. Nếu lời khai có dấu hiệu bị mua chuộc, ép buộc hoặc gian dối, thì không những bị loại khỏi hồ sơ chứng cứ mà người khai còn có thể bị xử lý theo quy định pháp luật.
Việc xác định lời khai có là chứng cứ hay không không chỉ dựa vào nội dung mà còn phụ thuộc rất lớn vào hình thức trình bày và cách thu thập. Tòa án sẽ đánh giá toàn diện dựa trên các yếu tố này trước khi công nhận lời khai là chứng cứ hợp pháp trong quá trình xét xử.
Tình huống giả định:
Lời khai của người làm chứng không được công nhận vì không đúng hình thức pháp lý
Ông Nguyễn Văn Huy (ngụ tại quận Bình Thạnh, TP.HCM) được mời làm người làm chứng trong một vụ tranh chấp hợp đồng đặt cọc giữa bà Nguyễn Thị Hồng và ông Trần Thanh Lâm. Ông Huy cho biết mình có mặt tại buổi giao dịch và khẳng định cả hai bên đã thỏa thuận rõ ràng số tiền và thời hạn. Tuy nhiên, thay vì đến Tòa án trình bày trực tiếp, ông Huy chỉ gửi một tin nhắn dài qua Zalo cho bà Hồng để xác nhận nội dung lời khai, trong đó không có chữ ký và cũng không được thu âm, ghi hình hay xác nhận xuất xứ tin nhắn.
Khi bà Hồng xuất trình đoạn tin nhắn này tại Tòa án và đề nghị xem đó là chứng cứ, Tòa án từ chối vì không đủ điều kiện pháp lý theo Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tin nhắn không có xác thực, không rõ nguồn gốc lưu trữ, không có xác nhận của người gửi về nội dung trình bày, và không phải là hình thức được pháp luật công nhận là chứng cứ. Tòa án yêu cầu triệu tập ông Huy đến phiên tòa để lấy lời khai trực tiếp, nếu không thì nội dung tin nhắn chỉ được xem là tài liệu tham khảo, không có giá trị chứng minh.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính chất tham khảo)
3. Kết luận
Người làm chứng là người biết các tình tiết liên quan đến vụ việc dân sự và được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng. Tuy nhiên, người mất năng lực hành vi dân sự không được làm chứng. Lời khai của người làm chứng chỉ được xem là chứng cứ nếu được thể hiện đúng hình thức pháp luật quy định như văn bản, ghi âm, ghi hình hoặc trình bày trực tiếp tại phiên tòa.