Trong xã hội, những vụ việc người chưa thành niên gây ra các tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt là tội giết người, luôn gây ra sự bàng hoàng, phẫn nộ và tranh cãi. Theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam, dù chưa đủ tuổi trưởng thành, các hành vi đặc biệt nghiêm trọng như giết người vẫn bị xử lý, nhưng pháp luật cũng đặt ra giới hạn về hình phạt nhằm đảm bảo tính giáo dục, cải tạo.
1. Người dưới 18 tuổi có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người?
Quy định này được nêu cụ thể tại khoản 2 Điều 12 và Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
...
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, trẻ em và người chưa thành niên là nhóm đối tượng được pháp luật đặc biệt quan tâm bảo vệ, nhất là khi liên quan đến trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc bỏ qua hoàn toàn hậu quả do hành vi của họ gây ra, đặc biệt khi đó là những tội phạm xâm phạm tính mạng người khác như tội giết người.
Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt mạng sống người khác, gây ra hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, để lại những tổn thương lớn cho gia đình nạn nhân và gây bất an cho toàn xã hội. Vì vậy, Bộ luật Hình sự quy định rất rõ: người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm tội này, bởi đây là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tình huống giả định
Nguyễn Văn Hoà (15 tuổi, học sinh lớp 9 tại một trường THCS ở Đồng Nai) vốn có học lực trung bình và tính tình nóng nảy, hay xích mích với bạn bè. Trong một lần tranh cãi với bạn cùng lớp tên Liêm về chuyện mượn đồ không trả, Hoà đã chuẩn bị sẵn một con dao nhỏ giấu trong cặp. Đến giờ ra chơi, Hoà gọi Liêm ra sau trường nói chuyện. Ban đầu chỉ là lời qua tiếng lại, nhưng sau đó hai bên to tiếng, Hoà không kiềm chế được đã rút dao đâm vào ngực Liêm khiến Liêm tử vong ngay tại chỗ.
Gia đình Hoà vô cùng hoảng loạn, nghĩ rằng con mình còn nhỏ nên “chắc chỉ bị cảnh cáo, không đi tù.” Tuy nhiên, khi cơ quan công an vào cuộc điều tra, xác định hành vi của Hoà thuộc tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự, là tội đặc biệt nghiêm trọng. Dù chưa đủ 16 tuổi, Hoà vẫn bị khởi tố, truy tố và xét xử theo quy định pháp luật, vì tội giết người nằm trong nhóm tội mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Tòa án sẽ xem xét độ tuổi, nhận thức, hoàn cảnh phạm tội, nhưng không miễn trừ hoàn toàn trách nhiệm, vì hậu quả gây ra là mất mạng người.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
2. Người dưới 18 tuổi giết người bị phạt bao nhiêu năm tù?
Quy định này được nêu cụ thể tại Điều 101 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
Điều 101. Tù có thời hạn
Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định như sau:
1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.
Nếu người phạm tội thuộc nhóm từ 16 đến 18 tuổi, hình phạt tối đa khi bị tuyên án không được vượt quá 18 năm tù, dù hành vi của họ có nằm trong nhóm đáng ra phải phạt tù chung thân hoặc tử hình. Với các khung hình phạt có thời hạn, tòa án chỉ được áp dụng tối đa ba phần tư mức án so với người trưởng thành.
Trong khi đó, với người từ 14 đến 16 tuổi thì mức phạt cao nhất không được quá 12 năm tù nếu điều luật gốc yêu cầu tù chung thân hoặc tử hình; với tù có thời hạn, chỉ áp dụng tối đa một nửa mức án.
Việc giảm nhẹ mức án không đồng nghĩa với việc miễn trách nhiệm hình sự. Trong thực tế xét xử, tòa án vẫn xem xét đầy đủ yếu tố nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, thái độ khai báo thành khẩn, hoàn cảnh gia đình, mức độ thiệt hại… để ra bản án công bằng, phù hợp.
Tình huống giả định
Nguyễn Minh Khoa (17 tuổi, trú tại quận Bình Tân, TP.HCM) vốn bỏ học sớm, theo nhóm bạn xã hội đen chuyên đi đòi nợ thuê. Trong một lần đến nhà ông Lê Văn Hải (50 tuổi) để ép trả nợ, Khoa được giao nhiệm vụ khống chế ông Hải trong khi các đàn anh lục soát tài sản. Khi ông Hải phản kháng quyết liệt, Khoa đã dùng một cây gậy gỗ đánh mạnh vào đầu nạn nhân khiến ông Hải tử vong tại chỗ.
Sau khi bị bắt, Khoa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Dù chưa đủ 18 tuổi, Khoa vẫn bị khởi tố về tội giết người theo Điều 123 Bộ luật Hình sự. Khi xét xử, tòa án căn cứ Điều 101 Bộ luật Hình sự để áp dụng mức án giảm nhẹ, tức thay vì đối mặt án tù chung thân hoặc tử hình, Khoa chỉ bị phạt tối đa 18 năm tù. Nếu áp dụng khung phạt tù có thời hạn (12 đến 20 năm), mức án dành cho Khoa tối đa chỉ là 15 năm tù. Đây là quy định pháp luật nhằm cân bằng giữa trách nhiệm xử lý và chính sách nhân đạo với người dưới 18 tuổi.
(Đây là tình huống giả định nhằm minh hoạ vấn đề pháp lý trên)
3. Kết luận
Người dưới 18 tuổi nếu phạm tội giết người vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự và bị phạt tù, nhưng pháp luật Việt Nam áp dụng nguyên tắc khoan hồng, giảm nhẹ để đảm bảo tính giáo dục, cải tạo. Dù hành vi có mức độ nguy hiểm nghiêm trọng, người chưa đủ tuổi trưởng thành sẽ không bị xử phạt y hệt như người lớn mà bị giới hạn mức án tối đa: người từ 16 tuổi đến 18 tuổi không quá 18 năm tù; người từ 14 tuổi đến 16 tuổi không quá 12 năm tù.