Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có được đăng ký kết hôn?

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có được đăng ký kết hôn?

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có thể đăng ký kết hôn nếu đáp ứng đủ điều kiện luật định và không thuộc trường hợp bị cấm theo Luật Hôn nhân và gia đình.

Trong quan hệ hôn nhân, năng lực hành vi dân sự là yếu tố quan trọng để xác định một người có thể tự quyết định việc kết hôn hay không. Theo quy định của pháp luật hiện hành, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có thể kết hôn nếu thỏa mãn các điều kiện được pháp luật công nhận.


1. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có được đăng ký kết hôn không?

Trả lời vắn tắt: Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn được phép đăng ký kết hôn nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo Luật Hôn nhân và gia đình.

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có được đăng ký kết hôn không.webp

Quy định này được nêu cụ thể tại khoản 1 Điều 8 và khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 

Điều 8. Điều kiện kết hôn

1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;

b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;

c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;

d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.

...

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 

Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình

...

2. Cấm các hành vi sau đây:

a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;

c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;

d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

h) Bạo lực gia đình;

i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.

...

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi ở mức độ nhất định, khác với người mất hoàn toàn năng lực. Họ vẫn có thể tham gia một số giao dịch dân sự nếu có sự hỗ trợ phù hợp như các giao dịch phục vụ cho đời sống hằng ngày của họ. Trong pháp luật hôn nhân và gia đình, pháp luật chỉ yêu cầu người kết hôn không bị mất năng lực hành vi dân sự. Vậy nên người bị hạn chế năng lực, nếu đủ tuổi, tự nguyện và không vi phạm quan hệ cấm kết hôn thì vẫn được phép đăng ký kết hôn hợp pháp.

Tình huống giả định

tinh-huong-nguoi-bi-han-che-nang-luc-hanh-vi-co-duoc-ket-hon.webp

  • Anh Kha bị Toà án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự
    Anh Kha (32 tuổi) từng bị chấn thương tâm lý, được Tòa án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự đối với anh Kha trong thời gian điều trị. Trong thời gian này, mọi giao dịch dân sự quan trọng của anh đều cần người đại diện hợp pháp hỗ trợ.
  • Anh Kha mong muốn đăng ký kết hôn sau khi điều trị ổn định
    Sau nhiều tháng điều trị, tình trạng tâm lý của anh Kha đã cải thiện rõ rệt, anh có mong muốn lập gia đình với chị Ngân – người đã đồng hành và chăm sóc anh trong suốt thời gian khó khăn. Cả hai đã bàn bạc nghiêm túc và thống nhất tiến tới hôn nhân.
  • Gia đình chị Ngân lo ngại về tính hợp pháp của việc đăng ký kết hôn
    Tuy nhiên, gia đình chị Ngân băn khoăn, lo sợ việc anh Kha vẫn đang bị tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ khiến việc đăng ký kết hôn trở nên không hợp pháp. Họ cho rằng, tình trạng này có thể khiến hôn nhân không được pháp luật công nhận hoặc dễ bị vô hiệu.
  • UBND phường xác nhận đủ điều kiện kết hôn
    Tại UBND phường Hiệp Ninh, cán bộ tư pháp đã kiểm tra hồ sơ và giải thích rõ: anh Kha không bị mất năng lực hành vi dân sự, nên hoàn toàn có quyền kết hôn theo luật. Anh đáp ứng đủ điều kiện về độ tuổi, sự tự nguyện và không thuộc các trường hợp bị cấm kết hôn.

Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.


2. Ai có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật?

Trả lời vắn tắt: Người có quyền yêu cầu hủy có thể là chính người bị cưỡng ép hay lừa dối; người thân như cha mẹ, con cái, người giám hộ; hoặc các cơ quan như Hội Liên hiệp Phụ nữ, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, trẻ em.

Ai có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.webp

Quy định này được nêu cụ thể tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

Luật Hôn nhân và gia đình 2014 

Điều 10. Người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

1. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này.

2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:

a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật;

b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;

c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;

d) Hội liên hiệp phụ nữ.

3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật.

Kết hôn trái pháp luật là việc kết hôn khi không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, ví dụ như chưa đủ tuổi, bị ép buộc, đang có vợ hoặc chồng, hoặc kết hôn với người có quan hệ huyết thống là các trường hợp bị cấm. Tùy vào tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, người có quyền yêu cầu hủy kết hôn cũng sẽ khác nhau. Nếu việc kết hôn xảy ra do bị cưỡng ép, lừa dối thì chính người bị tổn hại có quyền yêu cầu Tòa án hủy bỏ. Còn nếu vi phạm các điều kiện khách quan như đang có vợ/chồng hoặc kết hôn cận huyết, thì cha mẹ, con, người giám hộ hoặc các tổ chức như Hội Phụ nữ, cơ quan bảo vệ trẻ em có thể đứng ra yêu cầu huỷ việc kết hôn đó. Những người khác, nếu phát hiện vi phạm, vẫn có thể gửi kiến nghị đến các cơ quan này.

Tình huống giả định

tinh-huong-huy-ket-hon-trai-phep.webp

  • Anh Tình phát sinh tình cảm với chị họ và đăng ký kết hôn
    Anh Tình (27 tuổi) sống cùng chị họ – người đã nuôi dưỡng anh từ nhỏ. Do hoàn cảnh neo đơn và gắn bó lâu dài, hai người phát sinh tình cảm và cùng nhau đăng ký kết hôn tại UBND cấp xã.
  • Hàng xóm phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật của việc kết hôn của anh Tình
    Một thời gian sau, chị Linh – hàng xóm của anh Tình, cho rằng cuộc hôn nhân này trái với quy định pháp luật nên đã gửi đơn kiến nghị đến Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình để phản ánh sự việc.
  • Cơ quan chức năng xác minh quan hệ huyết thống của việc kết hôn
    Sau khi kiểm tra hồ sơ và tra cứu huyết thống, cơ quan chức năng xác định anh Tình và chị họ có quan hệ trong phạm vi ba đời, vi phạm khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 – là hành vi bị cấm kết hôn.
  • Cơ quan chức năng yêu cầu Tòa án tuyên hủy kết hôn trái pháp luật
    Trên cơ sở kết quả xác minh, Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình đã gửi văn bản đề nghị Tòa án có thẩm quyền thực hiện thủ tục hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa anh Tình và chị họ theo quy định hiện hành.

Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.


3. Kết luận

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn được quyền kết hôn, miễn là đáp ứng đủ điều kiện luật định và không thuộc các trường hợp bị cấm kết hôn. Tuy nhiên, nếu việc kết hôn trái quy định pháp luật thì chính người bị tổn hại, cha mẹ, người giám hộ, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội có thẩm quyền đều có thể yêu cầu Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật để bảo vệ trật tự hôn nhân và quyền lợi của các bên liên quan.

Bảo Linh
Biên tập

Mình đang là sinh viên khoa Chất lượng cao, chuyên ngành Dân Sự - Thương Mại - Quốc Tế tại trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Với niềm đam mê dành cho pháp luật, mình luôn nỗ lực học tập trên lớp và...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá