Cai thầu trả lương cho người lao động như thế nào theo quy định pháp luật?

Cai thầu trả lương cho người lao động như thế nào theo quy định pháp luật?

Cai thầu là người trả lương cho người lao động tuy nhiên người sử dụng lao động là chủ chính vẫn phải chịu trách nhiệm trả lương cho người lao động khi cai thầu không thực hiện đúng nghĩa vụ.

Trong thực tế lao động, nhiều doanh nghiệp sử dụng người cai thầu hoặc bên trung gian để quản lý và trả lương cho người lao động. Việc này giúp tổ chức sản xuất linh hoạt hơn nhưng cũng tiềm ẩn rủi ro khi người cai thầu không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả lương. Pháp luật lao động đã quy định rõ trách nhiệm cuối cùng thuộc về người sử dụng lao động là chủ chính.


1. Trách nhiệm trả lương khi sử dụng người cai thầu được quy định như thế nào?

Trả lời vắn tắt: Người sử dụng lao động là chủ chính vẫn phải chịu trách nhiệm trả đủ lương bảo đảm quyền lợi cho người lao động nếu người cai thầu không thực hiện đúng nghĩa vụ.

Trách nhiệm của cai thầu

Điều 100 Bộ luật Lao động 2019 quy định như sau: 

Bộ luật Lao động 2019

Điều 100. Trả lương thông qua người cai thầu

1. Nơi nào sử dụng người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian tương tự thì người sử dụng lao động là chủ chính phải có danh sách và địa chỉ của những người này kèm theo danh sách những người lao động làm việc với họ và phải bảo đảm việc họ tuân thủ quy định của pháp luật về trả lương, an toàn, vệ sinh lao động.

2. Trường hợp người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian tương tự không trả lương hoặc trả lương không đầy đủ và không bảo đảm các quyền lợi khác cho người lao động thì người sử dụng lao động là chủ chính phải chịu trách nhiệm trả lương và bảo đảm các quyền lợi cho người lao động.

Trong trường hợp này, người sử dụng lao động là chủ chính có quyền yêu cầu người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian tương tự đền bù hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật.

Người cai thầu chỉ đóng vai trò trung gian trong việc tổ chức, quản lý và chi trả tiền lương cho người lao động. Dù tiền lương được chi trả thông qua cai thầu, trách nhiệm pháp lý cuối cùng vẫn thuộc về người sử dụng lao động là chủ chính. Khi người cai thầu không trả lương hoặc trả không đầy đủ, người lao động có quyền yêu cầu chủ chính trực tiếp thanh toán mà không phải tự đi đòi từ cai thầu. Sau đó, chủ chính mới có quyền yêu cầu cai thầu bồi hoàn hoặc khởi kiện tranh chấp theo quy định pháp luật.

Tình huống giả định

Cai thầu thực hiện nghĩa vụ trả lương

  • Tổ chức lao động thông qua cai thầu
    Công ty Cổ phần Xây dựng Minh Phát tại tỉnh Tây Ninh ký hợp đồng với ông Nguyễn Văn Tấn làm cai thầu thi công công trình. Người lao động làm việc trực tiếp dưới sự quản lý của ông Tấn nhưng phục vụ cho công trình của công ty.
  • Phát sinh việc không trả đủ lương
    Đến kỳ thanh toán, ông Tấn chỉ trả một phần tiền lương và chậm nhiều tuần so với thỏa thuận. Người lao động phản ánh nhưng không được giải quyết dứt điểm.
  • Chủ chính phải chịu trách nhiệm
    Cơ quan có thẩm quyền xác định Công ty Cổ phần Xây dựng Minh Phát phải trả đủ tiền lương và các quyền lợi còn thiếu cho người lao động. Sau đó, công ty có quyền yêu cầu ông Nguyễn Văn Tấn đền bù theo thỏa thuận đã ký.

Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.


2. Nếu chủ chính không trả đủ hoặc không trả lương thì bị xử phạt bao nhiêu?

Trả lời vắn tắt: Chủ chính có thể bị phạt tiền đến 100.000.000 đồng, tùy theo số lượng người lao động bị vi phạm và buộc trả đủ tiền lương kèm lãi chậm trả.

Tranh cãi tiền lương

Điều 17, Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định như sau: 

Nghị định 12/2022/NĐ-CP

Điều 17. Vi phạm quy định về tiền lương

...

2. Phạt tiền đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi: Trả lương không đúng hạn theo quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền lương cho người lao động theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm thêm giờ; không trả hoặc trả không đủ tiền lương làm việc vào ban đêm; không trả hoặc trả không đủ tiền lương ngừng việc cho người lao động theo quy định của pháp luật; hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động; ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định; khấu trừ tiền lương của người lao động không đúng quy định của pháp luật; không trả hoặc trả không đủ tiền lương theo quy định cho người lao động khi tạm thời chuyển người lao động sang làm công việc khác so với hợp đồng lao động hoặc trong thời gian đình công; không trả hoặc trả không đủ tiền lương của người lao động trong những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm khi người lao động thôi việc, bị mất việc làm; không tạm ứng hoặc tạm ứng không đủ tiền lương cho người lao động trong thời gian bị tạm đình chỉ công việc theo quy định của pháp luật; không trả đủ tiền lương cho người lao động cho thời gian bị tạm đình chỉ công việc trong trường hợp người lao động không bị xử lý kỷ luật lao động theo một trong các mức sau đây:

a) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b) Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c) Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d) Từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ) Từ 40.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.

...

5. Biện pháp khắc phục hậu quả

a) Buộc người sử dụng lao động trả đủ tiền lương cộng với khoản tiền lãi của số tiền lương chậm trả, trả thiếu cho người lao động tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều này;

...

Điều 6. Mức phạt tiền, thẩm quyền xử phạt và nguyên tắc áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính nhiều lần

1. Mức phạt tiền quy định đối với các hành vi vi phạm quy định tại Chương II, Chương III và Chương IV Nghị định này là mức phạt đối với cá nhân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1, 2, 3, 5 Điều 7; khoản 3, 4, 6 Điều 13; khoản 2 Điều 25; khoản 1 Điều 26; khoản 1, 5, 6, 7 Điều 27; khoản 8 Điều 39; khoản 5 Điều 41; khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 Điều 42; khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 Điều 43; khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 Điều 45; khoản 3 Điều 46 Nghị định này. Mức phạt tiền đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.

...

Theo Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP, người sử dụng lao động là chủ chính có trách nhiệm trực tiếp bảo đảm việc trả lương đầy đủ, đúng hạn cho người lao động, kể cả trong các trường hợp trả lương thông qua người cai thầu hoặc trung gian. Khi không trả hoặc trả không đủ tiền lương, chủ chính bị xử phạt hành chính theo số lượng người lao động bị ảnh hưởng, với mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với cá nhân; nếu là tổ chức thì mức phạt gấp đôi. Ngoài tiền phạt, pháp luật buộc người sử dụng lao động phải trả đủ tiền lương còn thiếu và tiền lãi do chậm trả, tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của ngân hàng thương mại nhà nước tại thời điểm xử phạt. 

Tình huống giả định 

Xử phạt đối với chủ chính

  • Phát sinh vi phạm nghĩa vụ trả lương
    Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Minh Long tại tỉnh Đắk Lắk sử dụng lao động thông qua ông Nguyễn Văn Phúc là cai thầu. Đến kỳ trả lương, người lao động chỉ nhận được một phần tiền lương so với thỏa thuận.
  • Người lao động phản ánh và kiểm tra
    Người lao động gửi đơn phản ánh đến cơ quan có thẩm quyền về việc bị trả lương không đầy đủ. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng xác định công ty là chủ chính không bảo đảm nghĩa vụ trả lương theo quy định.
  • Xử lý vi phạm
    Công ty Trách nhiệm hữu hạn Sản xuất Minh Long bị xử phạt hành chính theo Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP và buộc trả đủ tiền lương còn thiếu kèm theo tiền lãi chậm trả cho người lao động.

Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.


Kết luận

Khi sử dụng người cai thầu, trách nhiệm trả lương cho người lao động vẫn thuộc về người sử dụng lao động là chủ chính. Việc không trả hoặc trả không đủ lương thông qua cai thầu không làm thay đổi nghĩa vụ pháp lý của chủ chính. Pháp luật đặt ra chế tài nghiêm khắc nhằm bảo vệ thu nhập và quyền lợi chính đáng của người lao động.

GÓC BÌNH LUẬN - THẢO LUẬN
Nghi Doanh
Biên tập

Mình là Lưu Trần Nghi Doanh, hiện đang là thực tập sinh tại Vietnam National Law, và là sinh viên Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài chuyên môn về pháp luật, mình còn có sở thích khác nh...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá