Sau tai nạn lao động, ngoài trách nhiệm hỗ trợ điều trị, doanh nghiệp còn có nghĩa vụ chi trả các khoản trợ cấp liên quan nhằm giúp người lao động phục hồi sức khỏe. Trong đó, trợ cấp dưỡng sức sau điều trị là quyền lợi chính đáng mà người lao động được hưởng theo quy định. Nếu người sử dụng lao động cố tình chậm trả hoặc không thực hiện, hành vi này sẽ bị xem là vi phạm pháp luật.
1. Không trả trợ cấp dưỡng sức cho người lao động có vi phạm pháp luật không?
Căn cứ khoản 7 Điều 38 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 quy định như sau:
Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015
Điều 38. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
...
7. Thực hiện bồi thường, trợ cấp đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày có kết luận của Hội đồng giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động hoặc kể từ ngày Đoàn điều tra tai nạn lao động công bố biên bản điều tra tai nạn lao động đối với các vụ tai nạn lao động chết người;
...
Theo quy định này, khi người lao động bị tai nạn, người sử dụng lao động không chỉ có nghĩa vụ sơ cứu, trả lương, bồi thường và sắp xếp lại công việc, mà còn phải phối hợp, hoàn tất các khoản trợ cấp sau điều trị, bao gồm cả trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khỏe do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả.
Trong thực tế, khoản trợ cấp này do quỹ bảo hiểm chi, nhưng doanh nghiệp là đầu mối nhận – vì vậy có trách nhiệm chuyển trả ngay cho người lao động sau khi nhận được. Khoản tiền này không thuộc quyền kiểm soát tùy ý của doanh nghiệp mà là quyền lợi bắt buộc của người lao động sau thời gian điều trị.
Việc cố tình trì hoãn, giữ lại hoặc im lặng không chi trả không chỉ trái với tinh thần của Luật An toàn, vệ sinh lao động mà còn phủ nhận trách nhiệm nhân đạo trong phục hồi sau tai nạn, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, thu nhập và niềm tin của người lao động với doanh nghiệp.
Tình huống giả định
Chị Nguyễn Thị Mỹ Duyên, công nhân may tại Công ty TNHH Dệt May Thành Thịnh (Bình Dương), bị tai nạn lao động trong khi vận hành máy công nghiệp, dẫn đến gãy xương cổ tay. Sau thời gian điều trị và giám định y khoa, chị Duyên được xác nhận suy giảm 12% khả năng lao động.
Ngày 20/6/2024, cơ quan BHXH chuyển khoản trợ cấp dưỡng sức 5.400.000 đồng về cho công ty để chi trả cho chị. Tuy nhiên, đến đầu tháng 7, chị vẫn chưa nhận được bất kỳ thông tin hay khoản chi nào. Khi chị hỏi, bộ phận hành chính cho rằng “sẽ cộng dồn chi lương tháng sau để tiện xử lý”.
Trong khi bản thân chị Duyên đang cần khoản tiền đó để mua thuốc bổ trợ điều trị, thì việc doanh nghiệp trì hoãn không chỉ khiến chị gặp khó khăn tài chính mà còn cho thấy sự thiếu tôn trọng quyền lợi của người lao động. Dù đây không phải khoản công ty bỏ ra, trách nhiệm chuyển trả đúng hạn vẫn là nghĩa vụ pháp lý không thể trì hoãn.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Không trả trợ cấp sau tai nạn lao động thì bị phạt bao nhiêu?
Khoản 1 Điều 41 và khoản 1 Điều 6 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định như sau:
Điều 41. Vi phạm các quy định khác về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng khi vi phạm với mỗi người lao động nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi không trả chế độ trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được tiền trợ cấp do cơ quan bảo hiểm xã hội chuyển đến.
Điều 6. Mức phạt tiền, thẩm quyền xử phạt và nguyên tắc áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính nhiều lần
1. Mức phạt tiền quy định trong Nghị định là mức phạt đối với cá nhân. Tổ chức vi phạm thì mức phạt gấp 2 lần cá nhân.
...
Như vậy, trong trường hợp doanh nghiệp chậm chi trả hoặc cố tình không chuyển tiền trợ cấp dưỡng sức cho người lao động sau tai nạn lao động, mỗi trường hợp vi phạm sẽ bị phạt từ 1 đến 2 triệu đồng. Tuy nhiên, tổng mức phạt không vượt quá 75 triệu đồng cho cùng một đợt xử phạt. Đặc biệt, nếu đối tượng bị xử phạt là tổ chức, thì mức phạt sẽ gấp đôi, tức từ 2 đến 4 triệu đồng mỗi trường hợp.
Khoản trợ cấp dưỡng sức là tiền của Quỹ bảo hiểm xã hội chi trả, doanh nghiệp không phải bỏ từ ngân sách của mình nhưng vẫn có trách nhiệm truyền đạt đúng – đủ – đúng hạn đến người lao động. Việc trì hoãn khoản tiền này, dù vô tình hay cố ý, đều là hành vi vi phạm pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội.
Tình huống giả định
Công ty Cổ phần May Gia Phúc ở Hải Dương có 6 công nhân bị tai nạn lao động trong quý II/2024 và được cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết trợ cấp dưỡng sức với tổng số tiền 36 triệu đồng, chuyển thẳng về công ty vào ngày 28/6/2024.
Dù nhận tiền đúng hạn, bộ phận kế toán của công ty không chuyển lại cho người lao động, viện lý do “chờ đợt chi lương tháng sau rồi trả luôn”. Một số công nhân khiếu nại lên công đoàn vì cần tiền gấp để điều trị và chi tiêu cá nhân sau tai nạn.
Sau khi kiểm tra và làm việc với cơ quan chức năng, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương xác định công ty vi phạm thời hạn chi trả theo Điều 41 Nghị định 12/2022/NĐ-CP. Công ty bị xử phạt hành chính 12 triệu đồng (2 triệu đồng x 6 người), đồng thời bị buộc trả ngay khoản trợ cấp cho người lao động và cam kết không tái phạm.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Trợ cấp dưỡng sức sau tai nạn lao động là quyền lợi hợp pháp và mang tính hỗ trợ đặc biệt cho người lao động sau khi điều trị. Khi cơ quan bảo hiểm xã hội đã chuyển tiền trợ cấp, người sử dụng lao động có nghĩa vụ trả lại đầy đủ cho người lao động trong vòng 5 ngày. Nếu chậm trễ hoặc không thực hiện, hành vi này bị coi là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử phạt hành chính, với mức phạt tùy theo số lượng người bị ảnh hưởng và tư cách pháp nhân của đơn vị vi phạm.