1. Vấn đề
Không thể phủ nhận những ưu điểm mà pháp luật về trách nhiệm sản phẩm mang lại cho hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thông qua các quy định của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm, các chủ thể kinh doanh nói chung (trong đó có nhà cung ứng hàng hóa) đã ngày một nâng cao nhận thức, ý thức và trách nhiệm trong việc cung ứng sản phẩm, hàng hóa bảo đảm chất lượng, an toàn trên thị trường và tới tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận hiện nay vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm cũng những điểm đặc trưng cơ bản của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá. Bài viết này sẽ góp phần làm rõ khái niệm và đặc điểm pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá, tạo tiền đề để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, áp dụng vào tiến trình xây dựng và hình thành pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của chủ thể kinh doanh nói chung, nhà cung ứng hàng hoá nói riêng trên thực tiễn.
2. Khái niệm pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hóa
2.1 Về khái niệm trách nhiệm sản phẩm
Trong mối quan hệ tiêu dùng, xuất phát từ tính chất xã hội của quan hệ tiêu dùng mà người tiêu dùng khó có thể có cơ hội được tự do, bình đẳng vì họ luôn phải tham gia vào mối quan hệ với đặc tính là “thông tin bất cân xứng”. Bên cạnh sự bất cân xứng về thông tin, người tiêu dùng còn có thể rơi vào tình trạng mất khả năng mặc cả khi họ buộc phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ của nhà cung cấp độc quyền. Xét cho cùng, trong mối quan hệ tiêu dùng, người tiêu dùng là chủ thể luôn được nhìn nhận ở vị thế yếu hơn so với nhà cung ứng hàng hoá, vị thế yếu này càng được thể hiện rõ nét khi xuất hiện những rủi ro, thiệt hại thực tế trong quá trình tiêu dùng hàng hóa.
Bàn về khái niệm trách nhiệm sản phẩm, dưới giác độ là một dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại (bồi thường thiệt hại), phát sinh do hàng hóa có khuyết tật (HHCKT) đã gây thiệt hại cho người tiêu dùng hiện trên thế giới có những quan điểm cơ bản sau đây:
1. Trách nhiệm sản phẩm là trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà bán hàng trong việc bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật mà nhà sản xuất, nhà bán hàng cung cấp gây ra thiệt hại hoặc thương tật cho người mua, người sử dụng hoặc người thứ ba
2. Trách nhiệm sản phẩm là trách nhiệm của nhà sản xuất đối với các sản phẩm gây thiệt hại cho khách hàng và khuyết tật do sản xuất, do thiết kế và không cảnh báo là cơ sở pháp lý quan trọng đối với các vụ khởi kiện về trách nhiệm sản phẩm
3. Trách nhiệm sản phẩm là trách nhiệm của nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ về việc bồi thường thiệt hại xảy ra liên quan đến quá trình sử dụng hàng hóa, dịch vụ đó như bị thương tật hoặc thiệt hại về tài sản.
Các nhà khoa học Việt Nam có những quan điểm trong việc tiếp cận khái niệm trách nhiệm sản phẩm dưới giác độ nêu trên, có thể kể đến một số quan điểm sau:
1. Trách nhiệm sản phẩm là trách nhiệm của người sản xuất hoặc người bán hàng trong việc bồi thường cho các thiệt hại gây ra bởi khuyết tật của hàng hóa mà họ đã cung cấp cho người tiêu dùng trong quá trình kinh doanh;
2. Trách nhiệm sản phẩm được hiểu theo nghĩa chung nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do sản phẩm có khuyết tật gây ra.
Ngoài ra, có quan điểm cho rằng trách nhiệm sản phẩm bao gồm nhiều dạng trách nhiệm khác nhau của nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá đối với người tiêu dùng, các dạng trách nhiệm này phát sinh trên cơ sở pháp luật của từng quốc gia trên thế giới, theo đó trách nhiệm sản phẩm được nhìn nhận như sau:
1. Trách nhiệm sản phẩm của nhà sản xuất, cung ứng hàng hoá bao gồm ba loại trách nhiệm cụ thể: Chế độ bảo hành sản phẩm; Chế độ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi nhà sản xuất có lỗi cố ý; Chế độ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngay cả khi nhà sản xuất, phân phối không có lỗi;
2. Chế định trách nhiệm sản phẩm được hiểu là các quy tắc trách nhiệm nghiêm ngặt được áp dụng cho nhà sản xuất hoặc phân phối sản phẩm khi sản phẩm có khuyết tật gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc nạn nhân khác có liên quan.
Qua nghiên cứu các quan điểm về trách nhiệm sản phẩm mà tác giả đề cập ở trên, có thể thấy, về cơ bản trách nhiệm sản phẩm được hiểu theo nghĩa chung nhất là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do HHCKT gây ra, ngay cả khi không có lỗi trong việc tạo ra khuyết tật của hàng hóa thì chủ thể kinh doanh nói chung, nhà cung ứng hàng hoá nói riêng cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đây là điểm khác biệt của dạng trách nhiệm này so với các trách nhiệm bồi thường thiệt hại khác. Tuy nhiên, nếu chỉ tiếp cận khái niệm trách nhiệm sản phẩm theo khía cạnh nghiên cứu như vậy, tác giả nhận thấy nội hàm của khái niệm trách nhiệm sản phẩm sẽ có những điểm hạn chế sau đây:
1. Trách nhiệm sản phẩm chỉ phát sinh trong trường hợp HHCKT đã gây thiệt hại cho người tiêu dùng; đối với trường hợp hàng hóa xuất hiện khuyết tật nhưng khuyết tật đó lại chưa gây ra bất kỳ thiệt hại nào cho người tiêu dùng thì vấn đề trách nhiệm sản phẩm sẽ không được đặt ra;
2. Nội hàm khái niệm trách nhiệm sản phẩm chưa bao quát hết được mọi dạng trách nhiệm mà chủ thể kinh doanh nói chung, nhà cung ứng hàng hoá nói riêng phải chịu đối với người tiêu dùng có liên quan đến những hàng hóa do mình cung ứng trên thị trường dẫn đến quyền được sử dụng hàng hóa an toàn của người tiêu dùng chưa được bảo đảm ở mức tối đa. Có quan điểm cho rằng trách nhiệm sản phẩm không chỉ nên nhìn nhận ở trách nhiệm bồi thường thiệt hại do HHCKT gây ra cho người tiêu dùng mà trách nhiệm sản phẩm cần phải được quy định là những trách nhiệm trong việc phòng ngừa không để khuyết tật của hàng hóa gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng, kể cả khi hàng hóa đó đã được chuyển quyền sở hữu sang phía chủ thể ở vị thế yếu là người tiêu dùng. Những trách nhiệm này phát sinh kể từ thời điểm khuyết tật của hàng hóa được phát hiện, có thể kể đến các dạng trách nhiệm như: trách nhiệm ngừng lưu thông, cung cấp HHCKT trên thị trường; trách nhiệm cảnh báo cho người tiêu dùng về khuyết tật của hàng hóa; trách nhiệm khắc phục khuyết tật của hàng hóa; trách nhiệm THHHCKT.
Phạm vi nghiên cứu của bài viết sẽ tiếp cận theo hướng, trách nhiệm sản phẩm được đặt ra đối với nhà cung ứng hàng hoá phát sinh từ thời điểm hàng hóa mà nhà cung ứng hàng hoá đưa vào lưu thông trên thị trường được xác định là không bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng (tức là có xuất hiện khuyết tật trên hàng hóa) mà không bao gồm tất cả những nghĩa vụ mà nhà cung ứng hàng hoá buộc phải tuân thủ nhằm bảo đảm sự an toàn của hàng hóa khi cung ứng hàng hoá đó trên thị trường và tới tay người tiêu dùng. Theo đó trách nhiệm sản phẩm là tổng hợp các trách nhiệm của nhà cung ứng hàng hoá đối với người tiêu dùng do pháp luật quy định, phát sinh từ thời điểm hàng hóa mà họ cung ứng trên thị trường được xác định là không bảo đảm an toàn.
2.2 Về khái niệm nhà cung ứng hàng hóa
“Nhà cung ứng hàng hóa” là một khái niệm tương đối rộng, câu hỏi đặt ra ở đây là nhà cung ứng hàng hoá nằm ở vị trí nào và đóng vai trò gì trong chuỗi cung ứng hàng hoá trên thị trường. Nghiên cứu quy định pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới thì thuật ngữ “Nhà cung ứng hàng hóa” chưa được định nghĩa một cách cụ thể mà chỉ được đề cập đến trong những khái niệm mang tính chất tương đồng, hay nằm trong phạm vi của những khái niệm có liên quan. Có thể kể đến một số khái niệm sau đây:
1. Theo Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Malaysia năm 1999, khái niệm “Nhà cung cấp” được hiểu đồng nghĩa với “Nhà cung ứng”, tức là người tham gia vào hoạt động thương mại:
a) Cung cấp hàng hóa cho người tiêu dùng bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền chiếm giữ hàng hóa thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, cho thuê (động sản và bất động sản), thuê mua mà người đó là một bên của hợp đồng hoặc
b) Cung cấp dịch vụ đến người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.
2. Trong Luật Liên bang Nga về bảo vệ quyền của người tiêu dùng năm 1992, sửa đổi năm 2022 có đề cập đến thuật ngữ “продавец” (tạm dịch là người bán hàng), có nghĩa là một tổ chức hay một cá nhân bán hàng hóa cho người tiêu dùng theo thỏa thuận mua bán.
3. Ở một góc độ khái quát hơn, khái niệm về “Nhà cung ứng” có thể được hiểu là nằm trong phạm vi khái niệm “Doanh nghiệp kinh doanh” quy định tại khoản 2, Điều 2 Luật bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan năm 1994, theo đó doanh nghiệp kinh doanh là những doanh nghiệp tham gia vào quá trình đặt kế hoạch, sản xuất, nhập khẩu hay phân phối hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ.
Bên cạnh đó, có quan điểm cho rằng “Nhà cung ứng” được hiểu là người bán hàng bao gồm bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào có hoạt động bán hàng hóa tiêu dùng trong quá trình kinh doanh như bán buôn, bán lẻ, phân phối, nhập khẩu hàng hóa tiêu dùng, dán tên tuổi của mình, nhãn hiệu thương mại hoặc ký hiệu nhận dạng trên hàng hóa tiêu dùng.
Trong nền kinh tế tuyến tính truyền thống, chuỗi cung ứng hàng hoá từ nhà sản xuất hàng hóa đến tay người tiêu dùng sẽ là mô hình hình ống (pipeline), tuần tự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa từ nhà sản xuất đến các nhà phân phối, sau đó từ nhà phân phối đến người tiêu dùng. Theo đó, để đưa được hàng hóa đến tay người tiêu dùng, nhà sản xuất phải thông qua một chủ thể kinh doanh khác đó là nhà phân phối, quy trình chuyển giao hàng hóa từ nhà sản xuất đến các nhà phân phối và từ nhà phân phối đến người tiêu dùng có thể được hiểu là chức năng của “Nhà cung ứng hàng hóa”. Chính vì vậy, tác giả cho rằng nhà cung ứng hàng hoá là những chủ thể kinh doanh (bao gồm bất kỳ tổ chức, cá nhân nào) nằm trong chuỗi cung ứng hàng hoá khi đảm nhận công đoạn đưa hàng hóa từ nhà sản xuất vào “dòng chảy thương mại” - tức lưu thông trên thị trường và cung cấp đến tay người tiêu dùng. Những chủ thể kinh doanh đó bao gồm nhà phân phối, nhà bán buôn, nhà bán lẻ,... Trong phạm vi của bài viết, nhà cung ứng hàng hoá được tác giả tiếp cận với vai trò của nhà phân phối, một đơn vị trực tiếp cung cấp hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng.
Trên cơ sở những luận giải được đề cập và phân tích ở trên, có thể hiểu trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá là tổng hợp trách nhiệm của nhà cung ứng hàng hoá đối với người tiêu dùng do pháp luật quy định, phát sinh từ thời điểm hàng hóa mà họ nhận chuyển giao từ nhà sản xuất và sau đó cung ứng trên thị trường đến tay người tiêu dùng xuất hiện khuyết tật và khuyết tật đó gây thiệt hại hoặc tiềm ẩn những nguy cơ gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Nghiên cứu về pháp luật, có quan điểm cho rằng “pháp luật là những giá trị đánh giá hành vi được Nhà nước đặt ra, thừa nhận hoặc khuyến khích sử dụng làm thước đo công bằng và công lý trong tất cả các quan hệ xã hội trong thời đại ngày nay”. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật quốc gia được hiểu là cấu trúc bên trong của pháp luật biểu hiện ở sự liên kết và thống nhất nội tại của các quy định pháp luật, được phân định thành những bộ phận nhỏ hơn, phù hợp với các đặc điểm và tính chất của các quan hệ xã hội mà chúng điều chỉnh. Những bộ phận nhỏ hơn ở đây có thể kể đến như ngành luật, chế định pháp luật và quy phạm pháp luật. Trong đó, “Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự được hình thành để điều chỉnh quan hệ xã hội chung có tính chất phổ biến, điển hình”, còn “Chế định pháp luật là thành tố của hệ thống pháp luật, bao gồm một nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có liên quan mật thiết với nhau” và “Ngành luật là thành tố lớn hơn chế định pháp luật của hệ thống pháp luật, bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội (những quan hệ xã hội có chung tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội) bằng những phương pháp nhất định”. Kế thừa những quan điểm đó, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá được tác giả tiếp cận với tư cách là một chế định pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Trên cơ sở những lập luận được phân tích ở trên, có thể hiểu khái niệm pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá theo nghĩa sau đây: “Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra và thừa nhận nhằm điều chỉnh các trách nhiệm của nhà cung ứng hàng hoá đối với người tiêu dùng phát sinh từ thời điểm hàng hóa mà họ nhận chuyển giao từ nhà sản xuất và sau đó cung ứng trên thị trường được xác định là không bảo đảm an toàn, hướng tới mục tiêu chung bảo đảm tối đa quyền lợi của người tiêu dùng và góp phần xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh”.
3. Đặc điểm pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hóa
Với tư cách là một chế định pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá bao gồm một số đặc điểm đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá ban hành những quy định đặc thù mang tính chất áp đặt, buộc nhà cung ứng hàng hoá phải chấp hành, tuân thủ nhằm hướng đến mục tiêu bảo đảm sự cân bằng về mặt lợi ích cũng như trách nhiệm giữa nhà cung ứng hàng hoá với người tiêu dùng trong mối quan hệ tiêu dùng.
Khi chấp nhận tham gia và chịu sự ràng buộc bởi mối quan hệ tiêu dùng, xuất phát từ tính chất xã hội của mối quan hệ này thì người tiêu dùng rất khó có thể có cơ hội đạt được sự tự do, bình đẳng trong quan hệ với bên cung ứng hàng hoá, dịch vụ bởi đặc tính “thông tin bất cân xứng”, đây được xem là điểm đặc thù trong quy định của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá nói riêng. Quá trình phát sinh quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa người tiêu dùng với nhà cung ứng hàng hoá trên thực tế cho thấy, nhà cung ứng hàng hoá luôn được nhìn nhận ở vị thế chủ động, trong khi đó người tiêu dùng thường ở vị thế thụ động. Vị thế chủ động của nhà cung ứng hàng hoá là sự chủ động về nguồn hàng, khả năng kiểm soát chất lượng và thông tin của hàng hóa mà mình cung ứng trên thị trường. Còn vị thế thụ động của người tiêu dùng là sự hạn chế về khả năng nắm bắt thông tin, nhận thức và năng lực đánh giá về chất lượng, sự bảo đảm an toàn của hàng hóa.
Những quy định trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá không chỉ là khung pháp lý hữu hiệu giúp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà nó còn mang “sứ mệnh” giúp cân bằng về mặt lợi ích, trách nhiệm giữa người tiêu dùng với nhà cung ứng hàng hoá cũng như giữa nhà cung ứng hàng hoá với các chủ thể khác trong chuỗi cung ứng hàng hoá trên thị trường; đồng thời giúp phân bổ những rủi ro, thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình tiêu dùng hàng hóa. Bên cạnh việc quy định các dạng trách nhiệm của nhà cung ứng hàng hoá đối với người tiêu dùng do hàng hóa mà họ cung ứng trên thị trường xuất hiện khuyết tật, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá còn bao hàm cả những quy định về phạm vi, thời hạn chịu trách nhiệm sản phẩm; các trường hợp được miễn trách nhiệm sản phẩm...
Thứ hai, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá là công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mà không phụ thuộc vào việc giữa nhà cung ứng hàng hoá với người tiêu dùng có quan hệ hợp đồng hay không.
Những chế định pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như: quyền của người tiêu dùng; hành vi cạnh tranh không lành mạnh; hợp đồng giao kết với người tiêu dùng... đều hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong mối quan hệ trực tiếp với nhà cung ứng hàng hoá nói riêng, các chủ thể kinh doanh nói chung. Điểm đặc trưng của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá so với các chế định này chính là việc người tiêu dùng được bảo vệ mà không phụ thuộc vào việc giữa nhà cung ứng hàng hoá với người tiêu dùng có quan hệ hợp đồng hay không. Pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá góp phần bảo vệ người tiêu dùng trong mọi trường hợp, trong đó có việc khởi kiện nhà cung ứng hàng hoá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Tuy nhiên với điều kiện đi kèm là hàng hóa xuất hiện khuyết tật được người tiêu dùng sử dụng trong quá trình tiêu dùng phải xác định được nguồn gốc, xuất xứ cũng như đơn vị cung ứng hàng hoá đó.
Qua đó có thể thấy, ngay cả trong trường hợp người tiêu dùng và nhà cung ứng hàng hoá không có cơ hội để tiếp xúc, trao đổi và thỏa thuận về các điều khoản pháp lý trong hợp đồng thì quyền được sử dụng hàng hóa bảm đảm an toàn của người tiêu dùng luôn luôn tồn tại, đây có thể được coi là quyền tuyệt đối của người tiêu dùng được pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá bảo vệ. Song hành cùng với quyền tuyệt đối đó của người tiêu dùng là những quy định cụ thể về trách nhiệm tương ứng của nhà cung ứng hàng hoá, buộc nhà cung ứng hàng hoá phải có trách nhiệm cung ứng hàng hoá bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng.
Thứ ba, sự khác biệt cơ bản trong hệ thống pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá giữa các quốc gia trên thế giới xuất phát từ việc lựa chọn học thuyết về sự bất cẩn như tại Canada... hay học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt như tại Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Hàn Quốc, Trung Quốc,... làm cơ sở để tiến hành xây dựng, hoàn thiện các quy định về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá.
Dựa theo quy định pháp luật của các quốc gia trên thế giới, để có cơ sở khởi kiện nhà cung ứng hàng hoá nói riêng, các chủ thể kinh doanh nói chung chịu trách nhiệm sản phẩm dựa trên sự bất cẩn, người tiêu dùng cần phải chứng minh được bốn yếu tố trọng tâm sau:
1. Nhà cung ứng hàng hoá có nghĩa vụ cẩn trọng hợp lý trong việc cung ứng hàng hoá an toàn;
2. Nhà cung ứng hàng hoá đã vi phạm nghĩa vụ đó bằng việc không loại trừ các nguy cơ mất an toàn có thể dự liệu trước;
3. Có thiệt hại xảy ra;
4. Có mối quan hệ nhân quả giữa sự vi phạm nghĩa vụ của nhà cung ứng hàng hoá với thiệt hại xảy ra. Trong đó, yếu tố thứ hai (nhà cung ứng hàng hoá đã vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, tức là có lỗi bất cẩn) là yếu tố khó chứng minh nhất. Qua đó, có thể thấy, học thuyết về sự bất cẩn đã phần nào đặt gánh nặng phải chứng minh lên người tiêu dùng, gây ra nhiều khó khăn cho người tiêu dùng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Tuy nhiên, sự bất cập về nghĩa vụ chứng minh trong học thuyết về sự bất cẩn được xem là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời và phát triển của học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt.
Nghiên cứu cho thấy, pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay được xây dựng và hoàn thiện dựa trên cơ sở học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt nhằm hướng đến mục tiêu giảm nhẹ nghĩa vụ chứng minh cho người tiêu dùng khi tiến hành khởi kiện yêu cầu nhà cung ứng hàng hoá chịu trách nhiệm sản phẩm. Trách nhiệm nghiêm ngặt là cơ sở thuận lợi nhất cho việc kiện đòi bồi thường thiệt hại theo chế định trách nhiệm sản phẩm. Trách nhiệm nghiêm ngặt được hiểu là người sản xuất (bao gồm cả các chủ thể kinh doanh khác như nhà cung ứng hàng hoá) phải chịu trách nhiệm nếu như sản phẩm bị kém chất lượng và việc sử dụng sản phẩm kém chất lượng này trong điều kiện bình thường gây ra những thiệt hại cho người sử dụng. Để khởi kiện theo cơ sở này, người khởi kiện không cần chứng minh có hay không có sự cẩu thả của nhà sản xuất (bao gồm cả nhà cung ứng hàng hoá), có hay không có nghĩa vụ đảm bảo. Người khởi kiện chỉ cần chứng minh rằng sản phẩm kém chất lượng, nguy hiểm và thực tế đã gây thiệt hại.
Nguyên tắc chung của học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt đó là việc nhà cung ứng hàng hoá không phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại liên quan đến hàng hóa chừng nào hàng hóa không bị hư hỏng và vẫn bảo đảm độ an toàn (không xuất hiện khuyết tật). Có thể hiểu, dựa theo học thuyết về trách nhiệm nghiêm ngặt, trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá chỉ phát sinh dựa trên sự tồn tại khuyết tật của hàng hóa. Do đó, trong trường hợp người tiêu dùng muốn khởi kiện, yêu cầu nhà cung ứng hàng hoá phải bồi thường đối với những thiệt hại do nhà cung ứng hàng hoá gây ra thì người tiêu dùng không cần phải chứng minh nhà cung ứng hàng hoá có lỗi trong việc cung ứng hàng hoá có khuyết tật; tuy nhiên phải chứng minh được các nội dung chính sau:
- Có xuất hiện khuyết tật của hàng hóa;
- Có thiệt hại xảy ra;
- Mối quan hệ nhân quả giữa khuyết tật của hàng hóa với thiệt hại xảy ra.
4. Kết Luận
Trên đây là một số phân tích về khái niệm, đặc điểm pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá. Thực tiễn cho thấy, khi người tiêu dùng sử dụng một hàng hóa do chủ thể kinh doanh (trong đó có nhà cung ứng hàng hoá) cung cấp trên thị trường, nếu hàng hóa đó xuất hiện khuyết tật và khuyết tật đó gây thiệt hại hoặc tiềm ẩn những nguy cơ gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì thông thường người tiêu dùng sẽ yêu cầu khởi kiện đối với nhà sản xuất hàng hóa đó mà quên mất đi rằng trong chuỗi cung ứng hàng hoá trên thị trường, bên cạnh nhà sản xuất thì còn nhiều chủ thể kinh doanh khác (bao gồm cả nhà cung ứng hàng hoá) tham gia vào quá trình cung ứng hàng hoá đến tay người tiêu dùng. Mỗi một chủ thể khác nhau sẽ thực hiện những chức năng, nhiệm vụ khác nhau trong chuỗi cung ứng hàng hoá. Và khuyết tật của hàng hóa xuất hiện ở công đoạn mà chủ thể kinh doanh nào đảm nhận thì chủ thể kinh doanh đó đương nhiên phải có nghĩa vụ và trách nhiệm trong việc khắc phục những hậu quả có thể gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Chính vì vậy, để bảo đảm cân bằng về mặt lợi ích giữa các chủ thể kinh doanh trong chuỗi cung ứng hàng hoá trên thị trường, việc nhận diện khái niệm, đặc điểm pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến trình xây dựng và phát triển pháp luật về trách nhiệm sản phẩm của chủ thể kinh doanh nói chung, nhà cung ứng hàng hoá nói riêng trong thực tiễn. Đồng thời, giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người tiêu dùng phân định rõ trách nhiệm sản phẩm của nhà cung ứng hàng hoá với các chủ thể khác trong chuỗi cung ứng hàng hoá trên thị trường, qua đó có cơ sở, căn cứ truy cứu trách nhiệm sản phẩm và yêu cầu khởi kiện đối với những chủ thể kinh doanh cụ thể khi họ cung ứng hàng hoá không bảo đảm an toàn trên thị trường và tới tay người tiêu dùng