Hoàn thiện thể chế và đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại là một trong ba đột phá chiến lược để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII. Vì vậy, việc nghiên cứu ảnh hưởng của những lý thuyết, mô hình quản trị hiện đại đối với hoàn thiện thể chế quản lý đất đai có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy hiệu quả quản trị đất đai ở Việt Nam hiện nay. Bài viết phân tích quan niệm, đặc trưng của mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” và những định hướng của Đảng và Chính phủ trong đổi mới quản trị quốc gia theo mô hình này, cũng như đánh giá thực trạng quản lý đất đai đối với những yêu cầu đặt ra trong xây dựng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” ở Việt Nam. Từ đó, rút ra những yêu cầu hoàn thiện thể chế quản lý đất đai trong thời gian tới.
1. Bối cảnh
Ở Việt Nam, vai trò to lớn của đất đai được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 rằng: “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật”. Đất đai ở Việt Nam theo chế độ sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Do đó, vai trò quản lý của Nhà nước có liên quan mật thiết đến hiệu quả sử dụng đất, ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về đất đai hiện nay còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu phát triển đất nước. Vì vậy, đứng trước yêu cầu hoàn thiện thể chế và đổi mới quản trị quốc gia theo Nghị quyết Đại hội XIII, thể chế quản lý đất đai cũng cần được hoàn thiện và đổi mới đồng bộ nhằm khơi thông nguồn lực đất đai phục vụ phát triển.
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác động, ảnh hưởng của những lý thuyết, mô hình quản trị hiện đại đối với vấn đề quản lý đất đai ở Việt Nam. Điển hình như nghiên cứu về “Quản trị tốt đất đai ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đình Thái đã liên hệ thực trạng quản lý đất đai ở Việt Nam với những đặc trưng của “quản trị tốt” và đề xuất một số giải pháp để tháo gỡ những điểm nghẽn trong quản trị đất đai hiện nay. Trong nghiên cứu về những ảnh hưởng của mô hình “Nhà nước kiến tạo phát triển” đối với quản lý đất đai, tác giả Châu Hoàng Thân cho rằng quan điểm về “Nhà nước kiến tạo phát triển” đã tạo nên nhiều thay đổi về vai trò của Nhà nước trong xã hội hiện đại; từ đó đặt ra những yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước, bao gồm quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam. Đồng thời, thông qua nghiên cứu về hệ thống quản trị đất đai ở Thụy Điển và Nhật Bản, hai tác giả Bùi Tiến Đạt và Trần Thị Trinh đã đề xuất, để nâng cao hiệu quả quản trị đất đai ở Việt Nam cần hướng đến hoàn thiện pháp luật và ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại trong xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về đất đai phục vụ hữu hiệu cho việc xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số.
Trong bối cảnh đổi mới phương thức quản lý nhà nước trên thế giới hiện nay, triết lý “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” cũng là một trong những xu hướng được nhiều quốc gia theo đuổi, góp phần nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia, thúc đẩy sự phát triển của xã hội và củng cố niềm tin của người dân5. Hiện nay, những nỗ lực của Đảng và Nhà nước nhằm đổi mới và nâng cao năng lực quản trị quốc gia đã bao hàm nhiều đặc trưng cốt lõi của một “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” như:
1) Đối với Chính phủ nhỏ, là thu hẹp phạm vi hoạt động của Nhà nước để tập trung vào quản lý vĩ mô, hạn chế can thiệp vào thị trường;
2) Đối với Xã hội lớn, là tăng cường sự tham gia của người dân, các tổ chức xã hội trong quản lý nhà nước và xã hội.
Vì vậy, việc nghiên cứu những quan niệm, đặc trưng và yêu cầu trong xây dựng mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” giúp xác định được những định hướng cụ thể cho việc hoàn thiện thể chế quản lý đất đai trong tình hình mới. Trước hết, là góp phần cung cấp thêm cơ sở lý thuyết và những luận cứ mới phục vụ công tác hoàn thiện dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
2. Quan niệm và đặc trưng của mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” trên thế giới
Theo từ điển Oxford, “Chính phủ nhỏ” là một cách tiếp cận đối với chính phủ dựa trên các nguyên tắc nhằm giảm thiểu vai trò của Nhà nước, đặc biệt là trong việc cung cấp dịch vụ công và điều tiết khu vực tư nhân6. Trung tâm Chính phủ nhỏ mô tả “Chính phủ nhỏ” là “một chính phủ bị giới hạn nghiêm ngặt để bảo vệ cuộc sống, quyền tự do, tài sản và các quyền cá nhân; và nó được kiềm chế và đủ minh bạch để dễ dàng tìm ra và loại bỏ tận gốc sự lãng phí và bất công của chính quyền”. Về “Xã hội lớn”, tác giả Hélène Balazard và cộng sự cho rằng, trong “Xã hội lớn”, các chương trình phát triển kinh tế, xã hội được ủy quyền theo cách phân cấp cho các cá nhân, cộng đồng và các tổ chức xã hội dân sự địa phương. Những chương trình nghị sự của “Xã hội lớn” là một hình thức chủ nghĩa địa phương “từ dưới lên” thay vì “từ trên xuống” và do đó dẫn đến các kết quả dân chủ và sáng tạo hơn.
Mô hình cải cách theo định hướng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” đã trở nên rất thịnh hành ở các nước phương Tây từ những năm 1980. Tác giả Frank Newport trong tác phẩm “Majority in U.S still say Government doing too much” đã kết luận rằng, cấu trúc chính quyền Hoa Kỳ ở cả trung ương và địa phương đều quá cồng kềnh. Vì vậy, Frank Newport ủng hộ:
1. Cải cách nền công vụ ở Hoa Kỳ theo hướng tinh gọn ở chính quyền địa phương;
2. Những lĩnh vực an sinh đơn giản nên có thể trao cho các tổ chức xã hội dân sự;
3. Giảm bớt trách nhiệm của chính quyền ở những lĩnh vực không cần thiết;
4. Tăng cường trách nhiệm tự quản xã hội của người dân thông qua các hiệp đoàn.
Ở Anh, Cựu Thủ tướng David Cameron trong chương trình nghị sự của mình đã khởi xướng 05 đặc trưng của mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” như sau:
1. Trao cho các cộng đồng nhiều quyền lực hơn;
2. Khuyến khích mọi người đóng vai trò tích cực trong cộng đồng của họ;
3. Chuyển giao quyền lực từ trung ương cho địa phương;
4. Hỗ trợ các hợp tác xã, tổ hợp tác, tổ chức từ thiện và doanh nghiệp xã hội;
5. Công khai, minh bạch thông tin, dữ liệu của chính quyền.
Ở Trung Quốc, xu hướng cải cách cũng đang theo định hướng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”. Theo mô hình này, chính phủ chỉ tập trung vào những công việc then chốt, điều tiết nền kinh tế vĩ mô, không ôm đồm, làm những việc không đáng làm.
Tóm lại, thông qua những quan niệm về mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”, tác giả rút ra một số đặc trưng của mô hình này như sau:
Thứ nhất, về quan niệm “Chính phủ nhỏ” cần được hiểu theo nghĩa rộng là “chính quyền nhà nước” bao gồm cả chính phủ và chính quyền địa phương. Chính quyền nhà nước theo mô hình “Chính phủ nhỏ” là phải tinh gọn về cơ cấu, tổ chức; xác định đúng chức năng, nhiệm vụ và bảo đảm hiệu quả quản lý; có phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương rõ ràng, minh bạch; tập trung vào quản lý vĩ mô bằng chính sách, pháp luật, hạn chế can thiệp vào thị trường; chuyển giao một số chức năng, nhiệm vụ không cần thiết cho xã hội và thị trường thực hiện.
Thứ hai, về quan niệm “Xã hội lớn” là phải phát huy vai trò của thị trường thông qua khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm, góp phần huy động và phân phối hiệu quả nguồn lực phát triển quốc gia; nâng cao vị trí, vai trò và sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
3. Định hướng xây dựng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” ở Việt Nam hiện nay và những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện thể chế quản lý đất đai
3.1 Định hướng xây dựng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” ở Việt Nam hiện nay
Về xây dựng Chính phủ nhỏ: Để cải cách mạnh mẽ cấu trúc bộ máy nhà nước hướng tới tinh gọn và hiệu quả, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành nhiều văn bản như: Nghị quyết số 39-NQ/TW về việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; Nghị quyết số 18- NQ/TW về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập,... Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Chính phủ đã thể chế thành nhiều văn bản, trong đó nổi bật như Nghị định số 108/2014/NĐ-CP, Nghị định số 113/2018/NĐ-CP và Nghị định số 143/2020/NĐ-CP quy định về chính sách tinh giản biên chế, tạo cơ sở pháp lý cụ thể cho việc thực hiện tinh giản biên chế nhằm cơ cấu lại và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy, hướng đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, nhằm tiếp tục khắc phục những hạn chế trong tổ chức và hoạt động bộ máy nhà nước, Văn kiện Đại hội XII nêu rõ, về việc tiếp tục phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương; tinh giản tổ chức, bộ máy gắn với phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động. Trên cơ sở này, phương châm “Chính phủ kiến tạo” của Chính phủ nhiệm kỳ 2016 - 2021 được xác định: “nhà nước không làm thay thị trường, những khu vực thị trường có thể làm được thì nhà nước không can thiệp. Nhà nước chỉ đầu tư vào những khu vực doanh nghiệp tư nhân không thể đầu tư”.
Về xây dựng Xã hội lớn: Văn kiện Đại hội XIII đã làm rõ và sâu sắc thêm mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Trong đó, điểm mới nổi bật chính là làm rõ vai trò của nhân tố xã hội. Cụ thể, Đại hội XIII xác định, Nhà nước thực hiện chức năng xây dựng, quản lý và thực hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách, pháp luật, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường; đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội có vai trò đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên, cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, chính sách của Nhà nước, giám sát cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi pháp luật14. Đồng thời, liên quan đến việc bảo đảm quyền của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước”. Từ đó, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã chủ trương, phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, có thể thấy Đảng, Nhà nước đã có những hành động cụ thể để tập trung đổi mới quản trị quốc gia theo mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” với mục tiêu kiến tạo phát triển và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Định hướng của mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” ở Việt Nam là từng bước tinh gọn tổ chức bộ máy; đổi mới chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương; phát huy vai trò của thị trường trong nền kinh tế; tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội trong quá trình quản lý nhà nước, giám sát, phản biện xã hội và xây dựng thể chế.
3.2 Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện thể chế quản lý đất đai theo định hướng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” ở Việt Nam hiện nay
Dựa trên những quan niệm và đặc trưng của “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” trên thế giới; đồng thời, liên hệ với định hướng xây dựng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” ở Việt Nam hiện nay, nhóm tác giả của Học viện Hành chính Quốc gia đã xây dựng 04 yêu cầu trong xây dựng mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” ở Việt Nam, bao gồm:
1. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công và cải cách chính phủ theo mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”;
2. Tăng cường phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương;
3. Đổi mới chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của bộ máy nhà nước;
4. Thực hiện công khai, minh bạch, không thương mại hóa; đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập.
Trên cơ sở những yêu cầu trên, gắn với những tổng kết của Nghị quyết số 18-NQ/ TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII và nghiên cứu của một số tổ chức quốc tế cho thấy một số tồn tại, hạn chế chủ yếu trong công tác quản lý đất đai ở Việt Nam như sau:
Một là, việc phân cấp, phân quyền quản lý, sử dụng đất chưa hợp lý, chưa đi đôi với kiểm tra, giám sát, kiểm soát hiệu quả;
Hai là, hệ thống tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về đất đai chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn, cơ chế và nguồn lực đầu tư cho bộ máy quản lý còn nhiều bất cập;
Ba là, việc tiếp cận đất đai của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn;
Bốn là, việc công khai, minh bạch và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin đất đai của tổ chức, cá nhân chưa đáp ứng yêu cầu pháp luật và nhu cầu của xã hội.
Nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý đất đai đáp ứng yêu phát triển trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 18-NQ/ TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã nêu một số quan điểm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai như: phân công hợp lý giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương, đồng thời có sự phân cấp, phân quyền phù hợp, hiệu quả đối với địa phương; thể chế, chính sách về đất đai phải được hoàn thiện đồng bộ và phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hiện đại hoá công tác quản lý, dịch vụ công về đất đai; củng cố, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy quản lý đất đai tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tập trung, đồng bộ, thống nhất; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong xây dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai.
Như vậy, căn cứ những yêu cầu đặt ra trong xây dựng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”, quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước và thực trạng quản lý đất đai hiện nay, theo tác giả, việc hoàn thiện thể chế quản lý đất đai ở Việt Nam hiện nay đặt ra một số yêu cầu sau:
- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và địa phương trong quản lý đất đai trên cơ sở hợp lý và hiệu quả;
- Đổi mới chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của hệ thống bộ máy, tổ chức cơ quan quản lý đất đai;
- Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý đất đai;
- Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong tiếp cận đất đai;
- Tăng cường sự tham gia của người dân và tổ chức xã hội trong quản lý đất đai.
4. Thực trạng quản lý đất đai đối với những yêu cầu đặt ra trong xây dựng mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” ở Việt Nam hiện nay
4.1 Đẩy mạnh phân quyền, phân cấp giữa chính quyền trung ương và địa phương trong quản lý đất đai trên cơ sở hợp lý và hiệu quả
Khi xây dựng mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”, yêu cầu đặt ra là cần phải có sự phân quyền, phân cấp rõ ràng, hiệu quả và hợp lý đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hệ thống cơ quan, đơn vị; hướng đến xây dựng bộ máy tinh gọn và phát huy trách nhiệm của từng cấp chính quyền, cơ quan, đơn vị. Nhằm tiếp tục thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ trên các ngành, lĩnh vực, ngày 24/6/2020 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP về đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực. Trong đó, đất đai là một trong những lĩnh vực được quan tâm phân cấp mạnh mẽ nhằm thúc đẩy hiệu quả sử dụng đất, khơi thông nguồn lực phát triển. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, việc phân cấp, phân quyền mạnh cho các địa phương trong quản lý đất đai đã làm cho chính quyền trung ương khó kiểm soát hiệu quả, phát sinh nguy cơ tham nhũng và tổn hại dân chủ xã hội. Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới, khoảng 25% số người được khảo sát cho rằng quyền hạn quá lớn của Ủy ban nhân dân trong giao đất, cho thuê đất đi kèm với bất cập trong công khai, minh bạch thông tin, hoạt động giám sát chưa hiệu quả là nhân tố dẫn đến tham nhũng trong quyết định giao đất, cho thuê đất. Bên cạnh đó, một số quy định trong pháp luật về đất đai hiện hành vẫn chưa làm rõ trách nhiệm trong phân cấp, phân quyền; phân cấp, phân quyền trên thực tế chưa thật sự gắn với phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan quản lý đất đai, chưa triệt để xóa bỏ cơ chế xin-cho, “tư duy nhiệm kỳ” trong hoạt động quản lý. Tóm lại, phân quyền, phân cấp trong quản lý đất đai hiện nay vẫn cần được cải thiện nhiều hơn nữa nếu muốn nâng cao hiệu quả quản trị đất đai.
4.2 Đổi mới chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của hệ thống bộ máy, tổ chức cơ quan quản lý đất đai
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”, cần tiếp tục thực hiện đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước tập trung vào quản lý vĩ mô bằng chính sách, pháp luật, thực hiện mục tiêu kiến tạo phát triển. Mục tiêu của đổi mới chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của hệ thống bộ máy, tổ chức cơ quan quản lý đất đai là nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, ngăn chặn vi phạm trong lĩnh vực đất đai, phục vụ cho người dân và doanh nghiệp hiệu quả hơn. Tuy nhiên, hiện nay, qua rà soát của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai vẫn còn rất nặng nề, phức tạp. Trong khi đó, bộ máy tổ chức và điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị ở nhiều địa phương chưa tương xứng. Ở cấp xã chỉ duy trì một công chức địa chính. Ở cấp huyện, Phòng Tài nguyên và Môi trường chỉ có khoảng 03 - 05 cán bộ để xử lý tất cả các nhiệm vụ liên quan đến đất đai, môi trường, xây dựng và quản lý đô thị dẫn đến quá tải, chưa thực hiện tốt việc phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm trong lĩnh vực đất đai. Văn phòng Đăng ký đất đai một cấp ở một số tỉnh còn chậm kiện toàn, Tổ chức phát triển quỹ đất chưa được quan tâm bố trí nguồn lực đầy đủ để thực hiện chức năng tạo quỹ đất. Năng lực cán bộ, công chức quản lý đất đai chưa đáp ứng yêu cầu.
4.3 Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý đất đai
Trong xu thế quản trị đất đai hiện đại, việc thực hiện công khai, minh bạch trong công tác quản lý đất đai là tiền đề để người dân phát huy quyền giám sát và tham gia có hiệu quả và thực chất hơn vào quá trình quản lý đất đai. Theo chương trình hành động giai đoạn 2021 - 2025 của ngành tài nguyên và môi trường thì việc bảo đảm tính công khai, minh bạch, dễ tiếp cận thông tin về đất đai cho người dân được xem là một trong những mục tiêu chiến lược được đề ra. Đồng thời, quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc xây dựng, cung cấp thông tin đất đai tại Điều 28 Luật Đất đai năm 2013 được xem là một nội dung rất quan trọng nhằm thực hiện công khai, minh bạch và đảm bảo quyền tiếp cận thông tin về đất đai của người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới thì “việc công khai thông tin đất đai tại Việt Nam dù đã được cải thiện, nhưng thực tế vẫn còn chưa đầy đủ so với yêu cầu của luật pháp”. Tương tự, nghiên cứu của một số tổ chức quốc tế khác như Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cũng cho thấy việc tiếp cận một số loại thông tin về đất đai như: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giá đất, quỹ đất ở địa phương, về đăng ký quyền sử dụng đất của người dân và doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn mặc dù đây là những thông tin phải công khai theo quy định pháp luật. Những tồn tại trong việc công khai, minh bạch thông tin về đất đai hiện nay đã ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu nâng cao hiệu quả quản trị đất đai.
4.4 Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong tiếp cận đất đai
Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, yêu cầu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các thành phần kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp chính quyền. Trong quản lý đất đai, yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo sự bình đẳng về khả năng tiếp cận đất đai. Theo đó, Nghị quyết số 10/NQ-TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã nêu rõ: “xoá bỏ các rào cản, chính sách, các biện pháp hành chính tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực xã hội, trọng tâm là vốn và đất đai; hoàn thiện pháp luật về đất đai tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân tiếp cận thị trường đất đai một cách minh bạch, bình đẳng theo cơ chế thị trường”.
Hiện nay, mặc dù pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện nhưng thực tế cho thấy vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng trong tiếp cận đất đai giữa các thành phần kinh tế. Điển hình là sự phân biệt đối xử giữa tổ chức kinh tế trong nước và nhà đầu tư nước ngoài trong pháp luật đất đai. Cụ thể, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, khi tiếp cận quyền sử dụng đất từ thị trường thứ cấp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể nhận quyền sử dụng đất thông qua ba hình thức: nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất; nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; thuê đất, thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Trong khi đó, ngoài ba hình thức trên, tổ chức kinh tế trong nước còn có thể nhận quyền sử dụng đất thông qua nhiều hình thức khác như: nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế quyền sử dụng đất. Như vậy, có thể thấy việc xác lập quyền sử dụng đất của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài từ thị trường thứ cấp rất hạn chế; những rào cản này đã đi ngược lại các cam kết của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Qua đó, làm ảnh hưởng và tác động tiêu cực đến hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời, thực tiễn công tác quản lý đất đai thời gian qua cũng cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân gặp rất nhiều khó khăn về thủ tục đất đai. Trong khi đó, các doanh nghiệp nhà nước thường không phải quá bận tâm về vấn đề này.
4.5 Tăng cường sự tham gia của người dân và tổ chức xã hội trong quản lý đất đai
Trong mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn”, người dân giữ vị trí trung tâm nên cần phải được phát huy quyền được tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Các tổ chức xã hội với vai trò là cầu nối, chỗ dựa vững chắc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các thành viên. Nâng cao vai trò của người dân và các tổ chức xã hội trong quản lý đất đai tức là đảm bảo những chủ thể này được tham gia thực chất hơn vào hoạt động quản lý, góp ý và phản biện chính sách, pháp luật về đất đai; tham gia giám sát công tác quản lý đất đai,... Hiện nay Luật Đất đai năm 2013 mới chỉ quy định về quyền giám sát của công dân đối với việc quản lý và sử dụng đất đai tại Điều 199, các quyền khác như đã đề cập vẫn chưa được quy định. Đồng thời, Điều 198 Luật Đất đai năm 2013 cũng có quy định về trách nhiệm giám sát hoạt động quản lý và sử dụng đất đai của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Tuy nhiên, thực trạng quản lý đất đai hiện nay cho thấy, vai trò, vị trí của người dân và các tổ chức xã hội trong quá trình quản lý đất đai vẫn chưa được xem trọng. Đối với sự tham gia của người dân, pháp luật đất đai hiện hành đang thiếu vắng quy định về tỷ lệ đồng thuận khi lấy ý kiến của người dân đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất khiến cho việc lấy ý kiến của người dân chủ yếu mang tính hình thức, làm cho vai trò giám sát của nhân dân chưa được phát huy; người bị thu hồi đất chưa được tham gia vào quá trình xác định giá đất bồi thường;... Trong khi đó, sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội vào quản trị địa phương hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Đặc biệt, việc giám sát và phản biện của các tổ chức xã hội tỏ ra không hiệu quả, còn mang tính hình thức, tiếng nói của tổ chức xã hội đôi khi chưa đủ trọng lượng. Đồng thời, thực tế cũng cho thấy, kinh phí hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phụ thuộc vào ngân sách nhà nước nên chưa phát huy hiệu quả vai trò là cơ sở của chính quyền nhân dân trong giám sát, phản biện đối với hoạt động quản lý và phân phối đất đai của các cơ quan quản lý nhà nước.
5. Kết Luận
Trong quá trình hoàn thiện thể chế và đổi mới quản trị quốc gia theo Nghị quyết Đại hội XIII, những định hướng và yêu cầu đặt ra trong xây dựng mô hình “Chính phủ nhỏ, xã hội lớn” có những tác động mạnh mẽ đối với thể chế quản lý đất đai. Do đó, trong thời gian tới, thể chế quản lý đất đai của Việt Nam, trước mắt là dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cần được hoàn thiện dựa trên các yêu cầu sau:
1. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa chính quyền trung ương và địa phương trong quản lý đất đai trên cơ sở hợp lý và hiệu quả;
2. Đổi mới chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của hệ thống bộ máy, tổ chức cơ quan quản lý đất đai;
3. Thực hiện công khai, minh bạch trong quản lý đất đai;
4. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong tiếp cận đất đai;
5. Tăng cường sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội trong quản lý đất đai
Nội dung bài viết này được được biên tập dựa theo bài đăng của ThS. Đinh Tấn Phong trên Tạp chí nhân lực khoa học & xã hội, được tác giả Đinh Tấn Phong cho phép trolyluat biên tập và đăng lại trên website này.