Khi những ràng buộc pháp lý vô hình trở thành điểm nghẽn cho các giao dịch kinh doanh tỷ đô, câu hỏi đặt ra là: Làm sao để giải mã được khái niệm mơ hồ về "hoàn thành việc chuyển nhượng" trong Luật Doanh nghiệp năm 2020? Trong bối cảnh các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang ngày càng lo ngại về tính minh bạch và công bằng, bài viết này sẽ là chìa khóa giúp bạn thấu hiểu, phân tích và tìm ra giải pháp tối ưu cho những bất cập trong quá trình thanh toán và hoàn thành hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp tại công ty trách nhiệm hữu hạn.
Hãy cùng xem qua bài viết sau để hiểu rõ hơn về có những giải pháp cho những thương vụ M&A đang gặp vấn đề về pháp lý!
1. Bối cảnh
1.1. Tầm quan trọng của Luật Doanh nghiệp năm 2020
Luật doanh nghiệp năm 2020 ra đời đã nêu rõ thời điểm chuyển giao quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn cụ thể tại khoản 2 điều 52. Tuy nhiên, việc vẫn sử dụng cụm từ “hoàn thành việc chuyển nhượng” gây ra không ít khó khăn không những cho các bên trong giao dịch mà còn gây khó khăn cho các cơ quan quản lý và ngân hàng thực hiện việc thanh toán. Trong nội dung bài viết này, tác giả sẽ phân tích, đưa ra các lập luận đứng trên góc độ của nhà tư vấn, các bên khi tham gia giao dịch và các cơ quan quản lý nhà nước từ đó đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tạo điều kiện cho các giao dịch m&a được diễn ra thuận lợi và đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.2. Vai trò của công ty trách nhiệm hữu hạn trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam
Luật Doanh Nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17 tháng 06 năm 2020 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 (Sau đây gọi tắt là Luật Doanh Nghiệp năm 2020) quy định rất nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia hoạt động đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Đối với các nhà đầu tư, việc lựa chọn loại hình doanh nghiệp nào để đăng ký khi quyết định đầu tư tùy thuộc rất nhiều yếu tố như: quản trị doanh nghiệp, quy chế hoạt động, cơ cấu nhà đầu tư và nhiều yếu tố khác. Trong những loại hình doanh nghiệp này, Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình doanh nghiệp phổ biến mà các nhà đầu tư trong và ngoài nước lựa chọn khi tham gia đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam vì loại hình doanh nghiệp này phù hợp với cách làm ăn truyền thống và giữa các nhà đầu tư nhất là những nhà đầu tư có mối quan hệ quen biết với nhau cùng nhau góp vốn đầu tư thành lập doanh nghiệp.
1.3. Hoạt động M&A và nhu cầu cải thiện quy định pháp luật
Theo báo cáo của Cục Quản Lý Đăng Ký kinh doanh tại Cổng thông tin Quốc gia về Đăng ký Doanh Nghiệp về tình hình doanh nghiệp thành lập theo loại hình thì loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn thông thường sẽ chiếm tỷ lệ hơn 83% trong tổng số loại hình doanh nghiệp được thành lập.
Chính vì vậy, ngoài loại hình Công ty Cổ Phần, hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp (Mergers và Acquisitions, Sau đây gọi tắt là M&A) đối với loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn diễn ra sôi động tại Việt Nam và kéo theo đó là nhu cầu cần phải có chính sách pháp luật phù hợp để hoạt động M&A được diễn ra minh bạch, tạo điều kiện cho các bên tham gia.
Một trong các hoạt động M&A trong các Công ty trách nhiệm hữu hạn là hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp được quy định tại Khoản 1 Điều 52 Luật Doanh Nghiệp năm 2020.
Tuy nhiên, cách diễn giải như thế nào là “hoàn thành việc chuyển nhượng” để Bên nhận chuyển nhượng được công nhận là thành viên góp vốn của Công ty hiện nay chưa được thống nhất, dẫn đến sự “e ngại” khi tham gia việc chuyển nhượng cho các nhà đầu tư và cũng “lúng túng” trong cách giải quyết thủ tục hành chính tại các cơ quan quản lý nhà nước.
2. Bất cập trong quy định về chuyển nhượng vốn góp
2.1. Quy định pháp luật hiện hành về chuyển nhượng phần vốn góp
Căn cứ theo Luật doanh nghiệp năm 2020, thành viên góp vốn có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác khi tuân thủ trình tự thủ tục theo quy định.
"Điều 52. Chuyển nhượng phần vốn góp
1. Trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 51, khoản 6 và khoản 7 Điều 53 của Luật này, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây:
a) Chào bán phần vốn góp đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện chào bán;
b) Chuyển nhượng với cùng điều kiện chào bán đôi với các thành viên còn lại quy định tại điểm a khoản này cho người không phải là thành viên nêu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày chào bán."
Trích dẫn Khoản 1 Điều 52 Luật Doanh Nghiệp số 59/2020/QH14 ngày 17 tháng 06 năm 2020.
Ngoài ra, Luật doanh nghiệp năm 2020 cũng nêu rõ thời điểm chuyển giao quyền và nghĩa vụ của thành viên chuyển nhượng/thành viên nhận chuyển nhượng, điều mà các văn bản quy phạm pháp luật trước đây chưa đề cập. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2 Điều 52 Luật doanh nghiệp năm 2020 thì “Thành viên chuyển nhượng vẫn có các quyền và nghĩa vụ đối với công ty tương ứng với phần vốn góp có liên quan cho đến khi thông tin về người mua quy định tại các điểm b, c và đ khoản 2 Điều 48 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên”. Có nghĩa rằng, thành viên nhận chuyển nhượng sẽ kế thừa quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn kể từ thời điểm thông tin của họ được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên của Công ty.
Tuy nhiên, khi tham khảo cụ thể hơn về trình tự thủ tục đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp thì Luật doanh nghiệp năm 2020 và các văn bản hướng dẫn2 lại dùng đến cụm từ “hoàn thành việc chuyển nhượng”, “các giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng trong trường hợp chuyển nhượng phần vốn góp” (tại các điều luật như Khoản 3 Điều 52 Luật doanh nghiệp năm 2020, Nghị định số 01/2021/ NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp).
Cụ thể, Căn cứ theo quy định tại Điều 51, 52 và 53 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp (Sau đây gọi tắt là Nghị định 01/2021/NĐ-CP) thì doanh nghiệp cần cung cấp “Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp hoặc các giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng phần vốn góp”.
Như vậy, căn cứ theo hướng dẫn nêu trên thì doanh nghiệp cần nộp loại giấy tờ chứng minh hoàn tất việc chuyển nhượng phần vốn góp trong đó Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp là một trong những hồ sơ có thể xem xét việc “hoàn thành việc chuyển nhượng” theo tinh thần của Điều 52 Luật Doanh Nghiệp năm 2020 như đã phân tích ở trên.
2.2. Sự mơ hồ của khái niệm "hoàn thành việc chuyển nhượng"
Cụ thể hơn, tùy vào nội dung của từng Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp mà Cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ xem xét có hay chưa việc “hoàn thành việc chuyển nhượng”. Hay nói cách khác, chỉ riêng Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp thì chưa chắc có thể chứng minh đã hoàn tất việc chuyển nhượng.
2.3. Khó khăn thực tế trong xử lý thủ tục chuyển nhượng tại các cơ quan nhà nước
Thực tế, các cơ quan đăng ký kinh doanh các tỉnh đều yêu cầu chứng minh việc hoàn tất việc chuyển nhượng nhưng không đồng đều, cụ thể:
Đối với những tỉnh có góc độ thoáng thì chỉ cần nộp Hợp đồng chuyển nhượng trong đó có nội dung được Bên chuyển nhượng và Bên nhận chuyển nhượng xác nhận rằng các bên đã hoàn thành việc chuyển nhượng (như mẫu Hợp Đồng của các tỉnh) là có thể hoàn thành thủ tục.
Ở một số địa phương khác (ví như Bình Dương, Đồng Nai......), ngoài việc cần nộp Hợp đồng chuyển nhượng thì cũng cần phải chứng minh đã hoàn thành việc thanh toán giá trị theo Hợp đồng chuyển nhượng đã ký kết thông qua chứng từ thanh toán, xác nhận về việc hoàn thành hợp đồng của người đại diện theo pháp luật...
Như vậy, dù có cách hiểu và hướng dẫn như thế nào, thì hiện tại các cơ quan đăng ký kinh doanh vẫn xuất phát từ quy định tại Điều 52 Luật Doanh Nghiệp với quan điểm cho rằng các bên phải “hoàn thành việc chuyển nhượng” thì hồ sơ đăng ký thay đổi thành viên góp vốn trong Công ty trách nhiệm hữu hạn mới hợp pháp.
Nếu căn cứ theo quy định tại Điều 52 Nghị định 01/2021/NĐ-CP nêu trên thì các bên nộp kèm Hợp đồng chuyển nhượng nhưng có thỏa thuận cụ thể tiến độ thanh toán, bàn giao phần vốn góp vẫn còn (ví như 02 năm sau thời điểm ký kết hợp đồng chuyển nhượng,...) thì lúc này hồ sơ này có hợp lệ theo quy định của Luật Doanh nghiệp hay không?
Mặt khác, căn cứ theo quy định tại Điều 11c Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15 tháng 8 năm 2013 của Bộ Tài chính đã được sửa đổi, bổ sung thì “Thời điểm xác định thu nhập tính thuế là thời điểm hợp đồng chuyển nhượng vốn góp có hiệu lực” và doanh nghiệp có nghĩa vụ khai khai thuế đối với hoạt động chuyển nhượng vốn trong vòng 10 ngày kể từ ngày ký Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp.
Với tư cách là Luật sư đàm phán trong các giao dịch nhận chuyển nhượng phần vốn góp, khi đứng vai trò phía bên nhận chuyển nhượng, chúng tôi sẽ chỉ chấp nhận việc thanh toán toàn bộ số tiền mua phần vốn góp sau khi hồ sơ đăng ký thay đổi thành viên đã được Cơ quan Đăng ký kinh doanh chấp thuận và phát hành Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mới cập nhật tên thành viên nhận chuyển nhượng là chúng tôi. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, vì tình hình tài chính của Công ty gặp nhiều khó khăn như công nợ nhiều, chúng tôi còn yêu cầu Bên chuyển nhượng hoàn thành việc thu hồi các công nợ đó về cho Công ty thì mới tiến hành việc thanh toán dứt điểm để thanh lý Hợp đồng chuyển nhượng. Các đề nghị này đều được Bên chuyển nhượng chấp thuận.
Như vậy, liệu rằng Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp có những điều khoản như nêu trên thì đã được xem như là đã hoàn thành việc chuyển nhượng theo Điều 52 Luật Doanh Nghiệp năm 2020 hay chưa? Và Cơ quan đăng ký kinh doanh có chấp thuận việc cấp phép hay không?
Đứng phương diện Cơ quan đăng ký kinh doanh, mặc dù việc chấp thuận hồ sơ đăng ký thay đổi thành viên góp vốn không có nhiều ý nghĩa vì căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 52 Luật doanh nghiệp năm 2020 thì “Thành viên chuyển nhượng vẫn có các quyền và nghĩa vụ đối với công ty tương ứng với phần vốn góp có liên quan cho đến khi thông tin về người mua quy định tại các điểm b, c và đ khoản 2 Điều 48 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên.”. Có nghĩa rằng, việc chuyển nhượng do các bên tự căn cứ theo quy định của pháp uật mà thực hiện và việc nộp hồ sơ đăng ký thay đổi lên Cơ quan đăng ký kinh doanh chỉ mục đích thông báo và quyền và nghĩa vụ với tư cách là thành viên góp vốn được chuyển giao cho bên nhận chuyển nhượng khi thông tin về người mua quy định tại các điểm b, c và đ khoản 2 Điều 48 của Luật này được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký thành viên. Tuy nhiên, trên thực tế, để có thể tiếp nhận và vận hành doanh nghiệp thì thông tin của Bên nhận chuyển nhượng phải được ghi rõ trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, từ đó Bên nhận chuyển nhượng mới có thể có tư cách đại diện, quản lý tài khoản ngân hàng và tiến hành các giao dịch có liên quan.
2.4. Tác động đến nhà đầu tư nước ngoài trong giao dịch M&A
Ngoài ra, việc hoàn tất việc chuyển nhượng sẽ càng khó khăn hơn trong trường hợp Bên nhận chuyển nhượng là nhà đầu tư nước ngoài.
Cụ thể, theo quy định của Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 ngày 17 tháng 06 năm 2020 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 (Sau đây gọi tắt là Luật Đầu tư năm 2020), khi nhà đầu tư nước ngoài mua phần vốn góp trong các doanh nghiệp Việt Nam thì sẽ có 02 trường hợp:
+ Trường hợp 1: Thuộc trường hợp phải thực hiện thủ tục đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Luật Đầu tư năm 2020. Khi này, Nhà đầu tư nước ngoài sẽ được Cơ quan đăng ký đầu tư cấp Thông báo về việc đáp ứng điều kiện góp vốn, mua cổ phần, mua lại phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài. Dựa vào thông báo này, Nhà đầu tư nước ngoài sẽ mở tài khoản đầu tư theo quy định tại Thông tư số 06/2019/TT-NHNN để thực hiện các giao dịch chuyển tiền.
+ Trường hợp 2: Thuộc trường hợp KHÔNG phải thực hiện thủ tục đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp theo quy định tại Khoản 1 Điều 26 Luật Đầu tư. Khi này, Nhà đầu tư nước ngoài sẽ trực tiếp thực hiện thủ tục thay đổi thành viên góp vốn như nhà đầu tư trong nước chứ không được cấp cấp Thông báo về việc đáp ứng điều kiện góp vốn, mua cổ phần, mua lại phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài như trường hợp 1. Theo quy định về pháp luật ngoại hối và quy định cụ thể tại Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 06/2019/ TT-NHNN thì: Việc góp vốn đầu tư bằng tiền của nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư Vệt Nam phải được thực hiện thông qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản vốn đầu tư trực tiếp. Như vậy, trong trường hợp này, Nhà đầu tư nước ngoài không có bằng chứng chứng minh về việc đầu tư hoặc sẽ đầu tư mua vốn trong doanh nghiệp dù đã đưa ra các Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp nên các ngân hàng thường từ chối việc chuyển tiền thanh toán khi nhà đầu tư thanh toán tiền mua phần vốn góp. Một số ngân hàng chỉ giải quyết việc thanh toán sau khi Nhà đầu tư cung cấp Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp kèm Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp đã thể hiện cụ thể Bên Chuyển nhượng và Bên nhận chuyển nhượng là nhà đầu tư nước ngoài.
Trên thực tế, rất nhiều trường hợp để hỗ trợ doanh nghiệp, Cơ quan đăng ký kinh doanh đã chấp thuận hồ sơ vì trong hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp theo mẫu được đăng tải trên trang web của các Sở Kế hoạch và Đầu tư có thể hiện nội dung “các bên cam kết đã hoàn tất việc chuyển nhượng và tự chịu trách nhiệm”. Tuy nhiên, khi giao dịch bất thành, “cơm không lành, canh không ngọt”, Bên chuyển nhượng lại khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã được cấp thay đổi vì lý do Bên nhận chuyển nhượng chưa hoàn tất việc chuyển nhượng theo Điều 52 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Dẫn chứng cho tình trạng này, tại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương đã xảy ra một sự vụ hết sức phức tạp.
Nội dung cụ thể: Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Môi trường Mỹ Nga (MSDN: 3700561292, sau đây gọi tắt là “Công ty Mỹ Nga”) có trụ sở tại Tỉnh Bình Dương. Tháng 05/2021, hai thành viên góp vốn của Công ty đã ký Hợp đồng chuyển nhượng 90% phần vốn góp cho Công ty Trung Hưng có trụ sở tại Tỉnh Việt Trì. Hợp đồng chuyển nhượng được lập theo mẫu quy định và có đầy đủ chữ ký của các bên xác nhận (tuy bản chất là hợp đồng giả cách). Theo đó, theo lời khai của Bên Chuyển nhượng, việc chuyển nhượng này là để sau khi trở thành thành viên, Công ty Trung Hưng sẽ đàm phán với các đối tác để hỗ trợ cho Công ty Mỹ Nga tiếp cận nguồn vốn phục vụ kinh doanh. Tuy nhiên, sau khi hồ sơ đã được chấp thuận, thành viên mới là Công ty Trung Hưng không thực hiện các nghĩa vụ theo cam kết và vì vậy, các thành viên góp vốn cũ thay vì khởi kiện yêu cầu hoàn trả lại phần vốn góp đã chuyển giao lại dùng lý nhiều lý do như hợp đồng giả cách, các bên chưa hoàn thành việc chuyển nhượng để tố ngược lại Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương vì đã chấp thuận hồ sơ. Ngay sau đó, Thanh tra Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương đã vào cuộc và có kết luận việc chấp thuận hồ sơ đăng ký thay đổi thành viên góp vốn của Công ty Mỹ Nga là phù hợp với pháp luật.
Hiện, vụ việc vẫn đang trong quá trình xử lý và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Tỉnh Bình Dương đã ra thông báo về việc tiếp nhận tội phạm số 569/TB-CSKT (Đ4) ngày 17/03/2022.
Qua sự việc này, xét trên phương diện là cơ quan quản lý nhà nước, chúng ta có thể thấy rằng việc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương không có cách nào để kiểm tra việc Hợp đồng chuyển nhượng trên đã “hoàn thành việc chuyển nhượng” hay chưa chứ đừng nói đến việc xác định Hợp đồng chuyển nhượng trên là giả cách. Việc Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Bình Dương căn cứ theo quy định của Luật Doanh Nghiệp và Nghị định 01/2021/NĐ-CP để chấp thuận hồ sơ đăng ký là có cơ sở vì đây chỉ là thủ tục hành chính. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương không có thẩm quyền cũng như không có nghĩa vụ phải xác định Hợp đồng giả cách vì thẩm quyền thuộc về Tòa án nhân dân. Nếu trong trường hợp này, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương yêu cầu nhiều hồ sơ chứng minh trước khi chấp thuận thì lại bị xem là “chèn ép doanh nghiệp”, “không tuân thủ các quy định” của Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Nghị định 01/2021/NĐ-CP nhưng khi chấp thuận mà “lỡ như” các bên tham gia giao dịch có phát sinh tranh chấp gì thì lại bị lấy lý do này để kiện và tố cáo Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Dương, dù họ không làm sai.
3. Hiểu thế nào là “hoàn tất việc chuyển nhượng” theo quy định của pháp luật dân sự
3.1. Quy định pháp luật dân sự về hợp đồng chuyển nhượng tài sản
Quy định của pháp luật dân sự không có khái niệm chi tiết hoàn tất việc chuyển nhượng của hợp đồng chuyển nhượng tài sản (trong trường hợp này là phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn). Pháp luật dân sự chỉ quy định cụ thể về nghĩa vụ thanh toán, nghĩa vụ bàn giao tài sản và không có khái niệm “hoàn tất việc chuyển nhượng”.
Cụ thể, căn cứ theo quy định tại Điều 434 Bộ Luật Dân sự thì “Thời hạn thực hiện hợp đồng mua bán do các bên thỏa thuận. Bên bán phải giao tài sản cho bên mua đúng thời hạn đã thỏa thuận; bên bán chỉ được giao tài sản trước hoặc sau thời hạn nếu được bên mua đồng ý ”.
Hoặc “Bên mua thanh toán tiền mua theo thời gian thỏa thuận. Nếu không xác định hoặc xác định không rõ ràng thời gian thanh toán thì bên mua phải thanh toán ngay tại thời điểm nhận tài sản mua hoặc nhận giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản.” - quy định tại Khoản 3 Điều 434 Bộ Luật Dân sự.
3.2. Thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản trong giao dịch
Ngoài ra, đối với việc chuyển quyền tài sản, quy định tại Điều 450 Bộ Luật Dân Sự nêu rõ “Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với quyền tài sản là thời điểm bên mua nhận được giấy tờ về quyền sở hữu đối với quyền tài sản đó hoặc từ thời điểm đăng ký việc chuyển quyền sở hữu, nếu pháp luật có quy định.”
Như vậy, pháp luật về dân sự cho phép các bên trong giao dịch (cụ thể ở đây là giao dịch chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn) được tự do thỏa thuận về nghĩa vụ thanh toán, nghĩa vụ bàn giao tài sản và các quyền và nghĩa vụ khác, bao gồm cả việc quy định cho phép các bên tự thỏa thuận như thế nào là hoàn tất việc chuyển nhượng.
4. Giải pháp và Kiến nghị
Luật Doanh nghiệp năm 2020 ra đời đã nêu rõ thời điểm chuyển giao quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn theo khoản 2 Điều 52. Tuy nhiên, việc vẫn sử dụng cụm từ “hoàn thành việc chuyển nhượng” gây ra không ít khó khăn không những cho các bên trong giao dịch mà còn gây khó khăn cho các cơ quan quản lý và ngân hàng thực hiện.
Trong các giao dịch M&A lớn, nghĩa vụ bàn giao quyền tài sản (ở đây là phần vốn góp) và nghĩa vụ thanh toán để hoàn tất giao dịch là 02 yếu tố cực kỳ quan trọng quyết định giao dịch M&A có rủi ro pháp lý hay không.
Chính vì vậy, qua bài viết này, với những phân tích và lập luận nêu trên, tác giả mong muốn và đề xuất Luật Doanh nghiệp sẽ có những điều chỉnh phù hợp như sau:
Thứ nhất, giao lại quyền quyết định như thế nào là “hoàn thành việc chuyển nhượng” cho các bên trong giao dịch.
Thứ hai, loại bỏ khái niệm “hoàn thành việc chuyển nhượng” tại Điều 52 Luật Doanh nghiệp năm 2020 và thay bằng chính sách cho phép các bên tự do thỏa thuận các điều khoản trong Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp.
Thứ ba, liên quan đến việc thực hiện thủ tục đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, tác giả đề nghị nên đi theo hướng “Cơ quan đăng ký kinh doanh có nghĩa vụ tiến hành thủ tục thay đổi thành viên góp vốn khi thành viên chuyển nhượng có văn bản để nghị cơ quan đăng ký kinh doanh tiến hành cập nhật việc chuyển nhượng”.
5. Kết Luận
Vấn đề pháp lý được đưa ra trong nội dung bài viết tuy nhỏ nhưng ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động M&A nhất là trong khi đàm phán về các điều khoản thanh toán, điều khoản chuyển giao quyền sở hữu phần vốn góp. Qua bài viết này, tác giả mong muốn đưa ra các phân tích, nhận định có liên quan và từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm giải quyết dứt điểm tránh phát sinh tranh chấp trong các giao dịch M&A.