Tình trạng bán hàng với giá cao bất hợp lý, còn gọi là “chặt chém”, đặc biệt nhắm vào khách du lịch tại các khu du lịch nổi tiếng, không chỉ gây bức xúc trong dư luận mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến hình ảnh điểm đến và uy tín của địa phương. Đây không đơn thuần là hành vi thiếu đạo đức trong kinh doanh mà còn là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử lý bằng các chế tài hành chính hoặc, trong một số trường hợp nghiêm trọng, còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định hiện hành.
1. Hành vi "chặt chém" bị xử phạt hành chính như thế nào?
Theo quy định tại Điều 13 Nghị định 87/2024/NĐ-CP:
Điều 13. Xử phạt hành vi vi phạm quy định về niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ
1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Không niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ bằng một trong các hình thức theo quy định của pháp luật;b) Niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng;
c) Niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ không đúng giá cụ thể do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân quyết định.
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi bán cao hơn giá niêm yết hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân định giá, kê khai giá không thuộc khoản 3 Điều này.
3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi bán cao hơn giá niêm yết đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục bình ổn giá, hàng hóa, dịch vụ trong thời gian Nhà nước thực hiện bình ổn giá.
4. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc thực hiện niêm yết giá theo đúng quy định đối với hành vi vi phạm tại khoản 1 Điều này;
b) Buộc trả lại cho khách hàng số tiền đã thu cao hơn giá niêm yết đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.
Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông báo công khai nội dung biện pháp khắc phục hậu quả nêu trên lên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 30 ngày, trường hợp không xác định được khách hàng hoặc khách hàng từ chối nhận thì nộp toàn bộ số tiền chênh lệch do bán cao hơn mức giá niêm yết vào ngân sách nhà nước.
Người bán hàng hóa, dịch vụ nếu "chặt chém" – tức bán cao hơn giá niêm yết – có thể bị xử phạt hành chính từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng nếu tự định giá, hoặc từ 20.000.000 đến 30.000.000 đồng nếu hàng hóa thuộc diện bình ổn giá. Trường hợp vi phạm niêm yết giá như không niêm yết, niêm yết sai hoặc gây nhầm lẫn cho khách hàng, mức phạt sẽ từ 500.000 đến 1.000.000 đồng.
Ngoài phạt tiền, người vi phạm còn buộc thực hiện lại việc niêm yết giá đúng theo quy định hoặc buộc trả lại khách hàng số tiền đã thu vượt quá, nếu không tìm được khách hàng hoặc khách hàng từ chối nhận thì nộp vào ngân sách nhà nước. Đồng thời công khai biện pháp khắc phục trên phương tiện thông tin đại chúng trong 30 ngày.
Tình huống thực tế
Ngày 7 tháng 5 năm 2025, Đội Quản lý thị trường số 1 thuộc Chi cục Quản lý thị trường tỉnh Khánh Hòa đã ban hành quyết định xử phạt hành chính 20,75 triệu đồng đối với ông P.V.L., chủ một bè nổi kinh doanh dịch vụ ăn uống tại đảo Trí Nguyên, Thành phố Nha Trang.
Theo kết quả kiểm tra, ông L. bị xử phạt với ba hành vi vi phạm gồm: (1) Thay đổi ngành, nghề kinh doanh nhưng không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện; (2) Kinh doanh dịch vụ ăn uống mà không có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm; và (3) Không thực hiện niêm yết giá hàng hóa theo quy định pháp luật.
Vụ việc được phát hiện sau khi một bài viết trên mạng xã hội Facebook lan truyền vào tối 2-5, phản ánh về hiện tượng “chặt chém” tại bè nổi này. Bài viết mô tả trải nghiệm của hai du khách đến từ địa phương khác, trong đó hóa đơn thanh toán cho bữa ăn gồm một số món đơn giản lên tới 2,78 triệu đồng, trong đó riêng 0,5 kg cá bò hòm có giá 1,75 triệu đồng, tương đương đơn giá 3,5 triệu đồng/kg.
Thông tin này gây bức xúc trên mạng xã hội và được cộng đồng chia sẻ mạnh mẽ. Ngay sau đó, Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa – ông Nguyễn Tấn Tuân – đã chỉ đạo UBND Thành phố Nha Trang phối hợp các cơ quan liên quan khẩn trương kiểm tra, xác minh và nếu phát hiện sai phạm thì phải xử lý nghiêm minh theo quy định pháp luật.
(Nguồn: Tuổi Trẻ Online)
2. Hành vi "chặt chém" có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Theo quy định tại Điều 168, Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015
Điều 168. Tội cướp tài sản
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
...
Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trong trường hợp chủ quán có hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần khách hàng nhằm ép buộc họ phải thanh toán hóa đơn đã bị nâng giá một cách bất hợp lý, thì hành vi này có thể bị xem xét xử lý hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự. Mức hình phạt áp dụng cho tội danh này là từ 01 năm đến 20 năm tù, tùy thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra.
Ngoài ra, nếu hành vi đe dọa không chỉ dừng lại ở mức uy hiếp tinh thần mà còn có dấu hiệu đe dọa sử dụng vũ lực ngay tức khắc hoặc trực tiếp dùng vũ lực để chiếm đoạt tiền của khách hàng, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản theo Điều 168 Bộ luật Hình sự, với khung hình phạt nghiêm khắc hơn, từ 03 năm tù đến tù chung thân.
Tình huống giả định
Tháng 4 năm 2025, chị Trần Thị Mai – một du khách đến từ Hà Nội – cùng nhóm bạn đi du lịch tại Thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Khi dạo chơi tại chợ đêm Dinh Cậu, nhóm của chị Mai được một người đàn ông đeo bảng "tư vấn hải sản" mời chào vào một quán ăn với cam kết “giá phải chăng, hải sản tươi sống tính theo cân, không chặt chém”.
Sau khi nhóm chị Mai đồng ý vào ăn và gọi các món như tôm hùm, cua, ốc hương… nhân viên không hề đưa bảng giá, cũng không báo đơn giá cụ thể cho từng món. Đến cuối bữa ăn, hóa đơn được mang ra với tổng số tiền lên tới 28 triệu đồng, trong đó riêng 1,2kg tôm hùm bị tính 18 triệu đồng, gấp 4 lần giá thị trường. Khi khách phản ứng, chủ quán lập tức đóng cửa, giữ đoàn khách lại trong khuôn viên quán, yêu cầu “trả tiền rồi mới được đi”, đồng thời để 2 nhân viên đứng chặn tại lối ra. Vì không muốn xảy ra xô xát giữa nơi đất khách, nhóm chị Mai buộc phải trả toàn bộ số tiền trên.
Ngay sau đó, chị Mai đã làm đơn tố giác gửi Công an Thành phố Phú Quốc kèm theo hình ảnh hóa đơn, đoạn video quay lại toàn bộ quá trình tranh cãi và hành vi giữ người. Kết quả điều tra xác định chủ nhà hàng này tên là Nguyễn Văn Tâm, đã từng bị xử phạt hành chính hai lần trong 3 năm gần nhất về hành vi tương tự. Lần này, ông Tâm tiếp tục không niêm yết giá, sử dụng thủ đoạn gian dối để dụ khách vào quán, rồi ép buộc thanh toán số tiền cao bất thường, kèm theo hành vi giữ người trái ý chí để buộc chi trả.
Căn cứ vào hồ sơ và lời khai, cơ quan điều tra đã xác định hành vi gian dối và cưỡng ép nhằm chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Văn Tâm có dấu hiệu cấu thành Tội cưỡng đoạt tài sản theo Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo)
KẾT LUẬN
Pháp luật hiện hành quy định rõ việc xử lý nghiêm các hành vi cố ý nâng giá bán vượt mức hợp lý – thường được gọi là hành vi “chặt chém” – trong hoạt động kinh doanh, mua bán. Tùy theo tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi, cá nhân hoặc tổ chức vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả theo quy định. Trường hợp hành vi có dấu hiệu gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của khách hàng, người thực hiện còn có thể bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 168 hoặc Điều 170 Bộ luật Hình sự.