Cá nhân lập di chúc để thể hiện ý chí của bản thân đối với việc định đoạt tài sản sau khi qua đời. Trong thực tế, có người viết tay, có người ra công chứng, nhưng không phải trường hợp nào cũng bắt buộc thực hiện thủ tục công chứng, chứng thực. Đa phần di chúc không cần phải tiến hành thủ tục công chứng, chứng thực mới có hiệu lực pháp lý. Ngoài ra, có những trường hợp di chúc bằng văn bản được người có thẩm quyền xác nhận thì vẫn có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực.
1. Di chúc có bắt buộc công chứng, chứng thực không?
Điều 628, Điều 630, Điều 635 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 628. Di chúc bằng văn bản
Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;
4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực.
...
Điều 630. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
...
Điều 635. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực
Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.
Pháp luật cho phép cá nhân lập di chúc bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó bao gồm cả di chúc có và không có công chứng, chứng thực. Tức là, một bản di chúc không mang đi công chứng hoặc chứng thực vẫn có thể có giá trị pháp lý, miễn là đáp ứng đầy đủ các điều kiện về chủ thể, nội dung và hình thức theo quy định tại khoản 1 Điều 630.
Tuy nhiên, có những ngoại lệ mà pháp luật buộc phải thực hiện thủ tục công chứng hoặc chứng thực mới được công nhận là hợp pháp. Chẳng hạn, đối với người bị hạn chế về thể chất hoặc không biết chữ, thì di chúc đó phải được lập thành văn bản bởi người làm chứng và phải có công chứng hoặc chứng thực thì mới có giá trị pháp lý.
Vì vậy, việc công chứng hay chứng thực di chúc là quyền của người lập di chúc, không phải nghĩa vụ bắt buộc trong mọi trường hợp. Chỉ khi rơi vào các trường hợp luật quy định cụ thể thì việc này mới trở thành điều kiện bắt buộc.
Tình huống giả định
Ông Phạm Văn Tính (66 tuổi, ngụ tại TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang) sống một mình và có một khối tài sản là căn nhà mặt tiền và sổ tiết kiệm ngân hàng trị giá 700 triệu đồng. Ông Tính không biết chữ nhưng vẫn minh mẫn, tỉnh táo. Trước khi qua đời, ông nhờ hàng xóm viết giúp một bản di chúc chia tài sản lại cho cháu gái ruột và ký điểm chỉ vào văn bản đó, không công chứng cũng không chứng thực.
Sau khi ông mất, cháu gái ông mang bản di chúc đến UBND phường để làm thủ tục khai nhận di sản, nhưng bị từ chối với lý do di chúc không có giá trị pháp lý. Vụ việc được chuyển đến Tòa án nhân dân TP. Long Xuyên. Tại đây, Tòa xác định ông Tính thuộc trường hợp không biết chữ, nên theo quy định tại khoản 2 Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc của ông bắt buộc phải có công chứng hoặc chứng thực. Vì không đáp ứng yêu cầu này, bản di chúc bị tuyên vô hiệu và tài sản được chia theo pháp luật.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
2. Những trường hợp nào di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực?
Điều 638 Bộ luật Dân sự 2015 quy định như sau:
Điều 638. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực
1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.
4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
6. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Trong một số trường hợp đặc biệt, người lập di chúc không thể tiếp cận cơ quan công chứng hoặc UBND cấp xã để chứng thực. Điều 638 Bộ luật Dân sự 2015 quy định các di chúc lập trong hoàn cảnh này vẫn có giá trị pháp lý nếu được người có thẩm quyền xác nhận. Các trường hợp bao gồm: quân nhân tại ngũ, người đi tàu biển hoặc máy bay, người điều trị tại bệnh viện, người làm việc ở vùng sâu vùng xa, công dân Việt Nam ở nước ngoài, người đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc thi hành án. Việc xác nhận của người có thẩm quyền giúp đảm bảo tính hợp pháp và tự nguyện của di chúc trong điều kiện đặc thù.
Tình huống giả định
Ông Trịnh Văn Hậu (52 tuổi, trú tại huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên) đang chấp hành án phạt tù 7 năm tại Trại giam Tân Lập vì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong thời gian thụ án, ông Hậu biết tin mình mắc bệnh hiểm nghèo giai đoạn cuối. Lo lắng về quyền lợi của con gái duy nhất là Trịnh Thị Hương, ông đã viết tay một bản di chúc để lại toàn bộ căn nhà và sổ tiết kiệm trị giá hơn 500 triệu đồng cho cô Hương. Bản di chúc này được Giám thị trại giam Tân Lập, Thượng tá Nguyễn Văn Lợi, trực tiếp xác nhận vào thời điểm ông Hậu lập di chúc.
Sau khi ông Hậu qua đời, người chị ruột khởi kiện yêu cầu chia di sản theo pháp luật, cho rằng bản di chúc không có công chứng nên không hợp lệ. Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên thụ lý và xác định đây là trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù lập di chúc có xác nhận của người phụ trách cơ sở giam giữ. Theo quy định tại Điều 638 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc của ông Hậu vẫn có giá trị pháp lý và được công nhận hợp pháp.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
Kết luận
Di chúc không nhất thiết phải công chứng hoặc chứng thực mới có hiệu lực pháp lý nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định. Tuy nhiên, đối với người không biết chữ hoặc bị hạn chế thể chất, việc công chứng hoặc chứng thực là điều kiện bắt buộc. Trong một số hoàn cảnh đặc biệt như người đang công tác tại vùng xa, trong bệnh viện, nhà tù… thì pháp luật cho phép lập di chúc có xác nhận của người có thẩm quyền thay cho thủ tục công chứng, chứng thực.