Quyền lập di chúc là quyền của cá nhân nhằm định đoạt tài sản sau khi qua đời. Một số người chọn để lại toàn bộ tài sản cho người ngoài, bao gồm cả nhân tình. Việc lập di chúc với nội dung như vậy vẫn được xem là phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vợ con của người để lại di sản dù không được nhắc đến trong di chúc vẫn có thể có quyền hưởng di sản nếu thuộc trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
1. Chồng có được lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho nhân tình không?
Điều 626 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể như sau:
Điều 626. Quyền của người lập di chúc
Người lập di chúc có quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
...
Điều 630. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
...
Bộ luật Dân sự quy định cá nhân có toàn quyền định đoạt tài sản của mình thông qua việc lập di chúc, bao gồm quyền chỉ định người thừa kế và truất quyền người khác. Điều này đồng nghĩa, nếu người chồng sở hữu tài sản riêng (không phải tài sản chung vợ chồng), và lập di chúc hợp pháp để lại toàn bộ cho một người ngoài như nhân tình, thì pháp luật vẫn công nhận hiệu lực của di chúc.
Tuy nhiên, để di chúc có giá trị, người lập di chúc phải đảm bảo các điều kiện tại Điều 630 như minh mẫn, tự nguyện, không trái đạo đức xã hội. Nếu di chúc hợp pháp và tài sản là tài sản riêng, thì việc người chồng để lại toàn bộ cho bất kỳ ai là hoàn toàn phù hợp pháp luật, bất kể người đó là nhân tình, bạn thân hay người xa lạ.
Tình huống giả định
Ông Nguyễn Văn Hòa (56 tuổi, trú tại quận Hải Châu, TP. Đà Nẵng) sở hữu một căn hộ chung cư trị giá 3 tỷ đồng đứng tên riêng do được cha mẹ tặng cho trước khi kết hôn. Trong thời gian sống chung với vợ là bà Trần Thị Thu, quan hệ giữa hai người căng thẳng kéo dài, không còn tình cảm. Cùng lúc đó, ông Hòa phát sinh tình cảm với một người phụ nữ tên Lê Thị Ngọc, thường xuyên qua lại, chăm sóc ông trong lúc ông đau ốm.
Cuối năm 2023, ông Hòa lập di chúc có công chứng tại Văn phòng công chứng Quận Hải Châu, trong đó tuyên bố để lại toàn bộ căn hộ riêng cho bà Ngọc. Sau khi ông mất vào đầu năm 2024, bà Thu (vợ hợp pháp) phản đối, yêu cầu hủy di chúc vì cho rằng ông Hòa đã "phản bội" gia đình và để lại tài sản cho “bồ”.
Tòa án nhân dân quận Hải Châu xác định căn hộ là tài sản riêng hợp pháp của ông Hòa, di chúc được lập trong trạng thái minh mẫn, hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, đồng thời đáp ứng đầy đủ điều kiện theo Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015. Tuy nhiên, do bà Thu thuộc trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc nên bà Thu vẫn được hưởng hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật và phần di sản còn lại thì thuộc về bà Ngọc theo đúng nội dung di chúc.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
2. Vợ con không có tên trong di chúc có được hưởng di sản không?
Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể như sau:
Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.
...
Điều 620. Từ chối nhận di sản
1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
...
Điều 621. Người không được quyền hưởng di sản
1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Mặc dù người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, nhưng pháp luật vẫn bảo vệ một số chủ thể đặc biệt trong quan hệ gia đình, gọi là “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc”. Theo Điều 644, nếu vợ, con chưa thành niên hoặc con thành niên mất khả năng lao động không hưởng di sản hoặc được hưởng phần ít hơn, họ vẫn được nhận phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu các đối tượng được liệt kê tại khoản 1 Điều 644 từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản thì quy định tại Điều 644 không được áp dụng để điều chỉnh.
Tình huống giả định
Ông Trịnh Văn Phúc (60 tuổi, ngụ tại quận Thanh Xuân, Hà Nội) có một căn nhà và sổ tiết kiệm trị giá 2,5 tỷ đồng là tài sản chung được chia khi ly hôn với vợ cũ. Năm 2023, ông sống một mình cùng con trai út tên Trịnh Hoàng Nam (14 tuổi) và có quan hệ tình cảm với bà Nguyễn Thị Kim Anh, một người phụ nữ làm ăn cùng. Cuối năm 2023, ông Phúc lập di chúc có công chứng, để lại toàn bộ tài sản cho bà Kim Anh, không nhắc gì đến con trai.
Sau khi ông Phúc mất, bà Nguyễn Thị Hoa (mẹ của cháu Nam) đã đại diện hợp pháp yêu cầu chia phần di sản cho con trai. Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân xác định cháu Nam là con chưa thành niên, thuộc diện người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Căn cứ Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015, cháu Nam được chia phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, phần còn lại chia theo di chúc.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
Kết luận
Người chồng có quyền lập di chúc để lại toàn bộ tài sản riêng cho bất kỳ ai, kể cả nhân tình, nếu đáp ứng đủ điều kiện pháp lý. Tuy nhiên, vợ và con vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật nếu thuộc đối tượng được liệt kê tại Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015.