Trong nhiều hoạt động hành chính và giao dịch hiện nay, chữ ký điện tử đang dần thay thế chữ ký tay truyền thống nhờ tính tiện lợi và khả năng xác thực nhanh chóng. Việc sử dụng chữ ký điện tử cũng đã được pháp luật quy định rõ về giá trị pháp lý, tạo nền tảng cho các giao dịch điện tử diễn ra hợp lệ. Đặc biệt, trong lĩnh vực ngân hàng, nơi yêu cầu tính chính xác và bảo mật cao, chữ ký điện tử cũng đã được ghi nhận và cho phép sử dụng trong một số trường hợp cụ thể.
1. Chữ ký điện tử có giá trị pháp lý như thế nào theo quy định hiện hành?
Điều 24 Luật Giao dịch điện tử 2005 có quy định như sau:
Điều 24. Giá trị pháp lý của chữ ký điện tử
1. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu chữ ký điện tử được sử dụng để ký thông điệp dữ liệu đó đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Phương pháp tạo chữ ký điện tử cho phép xác minh được người ký và chứng tỏ được sự chấp thuận của người ký đối với nội dung thông điệp dữ liệu;
b) Phương pháp đó là đủ tin cậy và phù hợp với mục đích mà theo đó thông điệp dữ liệu được tạo ra và gửi đi.2. Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 22 của Luật này và chữ ký điện tử đó có chứng thực.
3. Chính phủ quy định cụ thể việc quản lý và sử dụng chữ ký điện tử của cơ quan, tổ chức.
Chữ ký điện tử là tập hợp các ký hiệu, mã hóa được gắn vào thông điệp dữ liệu (ví dụ như văn bản, email, hợp đồng điện tử) để xác nhận người ký và thể hiện sự đồng ý với nội dung văn bản. Luật Giao dịch điện tử 2005 khẳng định rõ rằng chữ ký điện tử sẽ có giá trị pháp lý như chữ ký tay nếu đáp ứng đồng thời hai điều kiện:
1. Có khả năng xác minh được người ký, đồng thời thể hiện rõ sự đồng thuận của người đó với nội dung văn bản;
2. Phương pháp ký phải đủ tin cậy và phù hợp với mục đích sử dụng của văn bản đó.
Như vậy, chữ ký điện tử không đơn thuần chỉ là ký hiệu gắn thêm, mà phải được tạo ra từ hệ thống kỹ thuật có khả năng xác thực danh tính, thường là qua các giải pháp chứng thực chữ ký số, chứng thư số hoặc các hệ thống xác minh điện tử có độ an toàn cao. Với tổ chức, việc ký số kèm theo dấu điện tử còn phải tuân thủ điều kiện về chứng thực và đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chữ ký điện tử ngày càng được chấp nhận rộng rãi trong lĩnh vực hợp đồng điện tử, văn bản nội bộ, giao dịch thương mại điện tử, và đã được nhiều cơ quan nhà nước công nhận trong các thủ tục hành chính, kê khai thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội…
Tình huống giả định
Công ty TNHH Ánh Dương (quận Tân Bình, TP.HCM) ký kết hợp đồng mua bán thiết bị điện tử trị giá 1,2 tỷ đồng với Công ty CP Kỹ thuật Phú Gia qua nền tảng giao dịch điện tử. Hợp đồng được các bên ký thông qua chữ ký điện tử có chứng thư số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp phép.
Sau 2 tháng thực hiện, phía bên mua xảy ra tranh chấp và cho rằng hợp đồng không có giá trị pháp lý vì “không có chữ ký tay và con dấu đỏ”. Tuy nhiên, khi vụ việc được đưa ra giải quyết tại TAND quận Tân Bình, Hội đồng xét xử xác định hợp đồng đáp ứng đầy đủ điều kiện về thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử theo Điều 24 Luật Giao dịch điện tử 2005. Việc các bên sử dụng chữ ký điện tử có xác thực, thể hiện rõ danh tính và sự đồng thuận là hoàn toàn hợp lệ, có giá trị như chữ ký tay. Tòa tuyên hợp đồng có hiệu lực pháp lý, các bên phải thực hiện đúng cam kết.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Chữ ký điện tử có được sử dụng trong hoạt động ngân hàng không?
Điều 7 Nghị định 35/2007/NĐ-CP có quy định như sau:
Điều 7. Sử dụng chữ ký điện tử trong hoạt động ngân hàng
1. Chữ ký điện tử trong hoạt động ngân hàng bao gồm chữ ký số và các loại chữ ký điện tử khác theo quy định của pháp luật.
2. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền thỏa thuận, lựa chọn sử dụng loại chữ ký điện tử, trừ trường hợp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quy định về việc sử dụng chữ ký điện tử trong những hoạt động ngân hàng cụ thể.
Trong lĩnh vực ngân hàng – nơi đòi hỏi mức độ xác thực và an toàn rất cao – việc áp dụng chữ ký điện tử không những được cho phép mà còn ngày càng trở thành xu hướng bắt buộc trong thời đại giao dịch số. Theo quy định tại Nghị định 35/2007/NĐ-CP, chữ ký điện tử được sử dụng trong hoạt động ngân hàng có thể là chữ ký số hoặc các loại chữ ký điện tử hợp pháp khác.
Việc sử dụng loại chữ ký nào sẽ do hai bên tham gia giao dịch thỏa thuận, trừ khi có quy định cụ thể từ Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho một số nghiệp vụ đặc thù. Điều này mở ra không gian linh hoạt cho ngân hàng và khách hàng doanh nghiệp/cá nhân trong việc lựa chọn hình thức giao dịch điện tử phù hợp, miễn là đáp ứng yêu cầu xác thực và đảm bảo tính toàn vẹn dữ liệu. Ngoài ra, các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số trong lĩnh vực ngân hàng cũng phải tuân thủ Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn liên quan, đảm bảo tính pháp lý và an toàn của chữ ký điện tử trong môi trường tài chính – ngân hàng.
Tình huống giả định
Công ty TNHH Dịch vụ Minh Hòa ký kết hợp đồng tín dụng 3 tỷ đồng với Ngân hàng TMCP Bảo Tín thông qua hệ thống Internet Banking. Hợp đồng được ký bằng chữ ký số của công ty, đã đăng ký xác thực với ngân hàng trước đó. Toàn bộ quy trình ký kết và lưu trữ hợp đồng đều được thực hiện trực tuyến, không có bản giấy hay chữ ký tay. Sau khi hợp đồng được ký, một nhân viên kế toán tên Hạnh – mới vào công ty – kiểm tra hồ sơ và gửi email thắc mắc đến ngân hàng, cho rằng: “Hợp đồng không có chữ ký tay hay con dấu, liệu có được coi là hợp lệ về mặt pháp lý nếu có tranh chấp xảy ra không?”
Hai ngày sau, Ngân hàng TMCP Bảo Tín có văn bản phản hồi, xác nhận rõ:
- Hai bên đã thỏa thuận sử dụng chữ ký điện tử trong giao dịch ngân hàng;
- Chữ ký số của công ty được chứng thực bởi đơn vị cung cấp dịch vụ hợp pháp;
- Giao dịch được thực hiện đúng quy trình xác thực và lưu trữ theo chuẩn ngành.
Ngân hàng viện dẫn Điều 7 Nghị định 35/2007/NĐ-CP, khẳng định rằng chữ ký điện tử, bao gồm chữ ký số, được pháp luật công nhận trong hoạt động ngân hàng và có giá trị pháp lý như chữ ký tay khi đáp ứng điều kiện xác minh và thỏa thuận giữa các bên. Sau phản hồi từ phía ngân hàng, công ty yên tâm tiếp tục thực hiện hợp đồng, đồng thời lưu văn bản trả lời vào hồ sơ để làm căn cứ sau này nếu cần đối chiếu.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
Kết luận
Chữ ký điện tử không chỉ được pháp luật công nhận mà còn có thể thay thế chữ ký tay trong nhiều giao dịch, nếu đáp ứng đúng điều kiện về xác thực và độ tin cậy. Khi sử dụng đúng quy định, chữ ký điện tử có giá trị pháp lý như chữ ký truyền thống. Trong lĩnh vực ngân hàng, các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận dùng chữ ký điện tử trong hợp đồng, thanh toán, giao dịch trực tuyến… mà vẫn đảm bảo hiệu lực pháp lý theo quy định.