Hiện nay, nhiều giao dịch vay mượn vàng giữa cá nhân với nhau vẫn diễn ra phổ biến và hợp pháp. Tuy nhiên, đến thời điểm trả nợ, không ít trường hợp xảy ra tranh chấp khi người vay muốn trả bằng tiền với giá vàng cũ thay vì hoàn trả đúng số lượng vàng đã vay. Việc xử lý nghĩa vụ trả nợ trong trường hợp vay vàng được pháp luật quy định cụ thể, đặc biệt khi bên vay không còn khả năng hoàn trả bằng vàng.
1. Có được cho vay mượn vàng hay không?
Quy định này được thể hiện tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 24/2012/NĐ-CP Về quản lý hoạt động kinh doanh vàng:
Điều 4. Nguyên tắc quản lý
1. Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật....
Theo đó, Nhà nước công nhận quyền sở hữu vàng hợp pháp và bảo vệ quyền này cho cá nhân, tổ chức. Dù pháp luật nghiêm cấm sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán trong giao dịch mua bán thông thường, nhưng việc cá nhân cho vay vàng hoặc mượn vàng (miễn là có nguồn gốc hợp pháp) không bị cấm, và thực tế vẫn được thực hiện phổ biến trong quan hệ dân sự.
Việc vay mượn vàng không bắt buộc phải lập thành văn bản, nhưng để tránh tranh chấp, các bên nên xác lập hợp đồng rõ ràng, trong đó ghi cụ thể: số lượng vàng, loại vàng, chất lượng, thời điểm trả và lãi suất (nếu có). Vàng là tài sản có giá trị lớn và biến động mạnh theo thời gian nên việc ghi nhận bằng giấy trắng mực đen giúp hạn chế rủi ro khi xảy ra mâu thuẫn.
Tình huống giả định
Anh Nguyễn Văn Hòa, 40 tuổi, trú tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, cho bạn hàng là anh Trí vay 10 chỉ vàng SJC vào năm 2020 để làm vốn nhập hàng kinh doanh. Giao dịch chỉ ghi giấy tay với nội dung: “Vay 10 chỉ vàng SJC, hẹn trả sau 12 tháng, không lãi.” Sau khi xảy ra mâu thuẫn, anh Trí từ chối trả vàng với lý do “cho vay vàng là không hợp pháp vì vàng không phải là tiền”.
Anh Hòa bức xúc, làm đơn khởi kiện ra Tòa án. Trong quá trình giải quyết, anh Trí tiếp tục cho rằng “vàng không được dùng làm phương tiện thanh toán nên cho vay là trái luật.” Tuy nhiên, Tòa án xác định rõ: giao dịch giữa hai bên là quan hệ vay tài sản hợp pháp, không trái quy định pháp luật, vì vàng là tài sản có giá trị và việc cho vay vàng không bị cấm, miễn là vàng thuộc sở hữu hợp pháp và không dùng để thanh toán hàng hóa. Tòa tuyên buộc anh Trí phải hoàn trả 10 chỉ vàng như cam kết trong giấy vay.
Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.
2. Vay vàng thì có bắt buộc phải trả bằng vàng không?
Quy định này được nêu rõ tại khoản 1 và 2 Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 466. Nghĩa vụ trả nợ của bên vay
1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.
Trong quan hệ vay mượn dân sự, việc một người đồng ý cho người khác mượn vàng – vốn là tài sản có giá trị cao và biến động mạnh theo thị trường – đã là một sự giúp đỡ đáng kể về tài chính, nhất là trong thời điểm người vay đang cần vốn gấp hoặc gặp khó khăn. Nếu người cho vay giữ lại số vàng đó thay vì cho mượn, theo thời gian giá trị tài sản có thể tăng đáng kể. Do đó, khi đến hạn trả, người vay có nghĩa vụ hoàn trả đúng loại vàng, số lượng và chất lượng như lúc vay, trừ khi hai bên có thỏa thuận khác.
Trong trường hợp người vay không còn khả năng hoàn trả bằng vàng, việc trả bằng tiền chỉ được xem xét nếu bên cho vay đồng ý. Và khi đó, giá trị thanh toán phải căn cứ vào giá vàng tại thời điểm trả nợ, chứ không phải giá vàng lúc vay. Đây là nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên cho vay, đảm bảo không ai bị thiệt hại vì đã giúp đỡ người khác đúng lúc cần thiết. Nếu người vay cố tình vin vào giá vàng quá khứ để hoàn trả với giá thấp hơn nhiều so với thực tế, điều đó vừa không đúng pháp luật, vừa đi ngược lại đạo lý.
Tình huống giả định
Năm 2016, bà Trần Thị Lan, 62 tuổi, trú tại TP. Long Xuyên (An Giang), cho bà Nguyễn Thị Tươi – hàng xóm thân thiết – vay 20 chỉ vàng SJC để làm ăn. Lúc đó, mỗi chỉ vàng có giá khoảng 3,2 triệu đồng. Cả hai chỉ viết tay giấy vay, không công chứng, nhưng có ghi rõ: “Trả bằng vàng đúng loại, không tính lãi”.
Đến năm 2024, bà Lan yêu cầu bà Tươi trả lại số vàng đã vay. Tuy nhiên, bà Tươi cho rằng “giờ giá vàng lên gần 6 triệu một chỉ, tôi chỉ trả tiền mặt theo giá lúc vay là hợp tình hợp lý”. Hai bên không thỏa thuận được nên bà Lan khởi kiện ra Tòa.
Tòa án xác định quan hệ vay vàng là hợp pháp và có chứng cứ rõ ràng. Do bà Tươi không còn khả năng trả bằng vàng thật, Tòa chấp thuận cho bà Tươi được trả bằng tiền theo giá vàng tại thời điểm trả nợ, tức gần 6 triệu đồng một chỉ, tổng cộng hơn 120 triệu đồng.
Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.
Kết luận
Việc cho vay vàng là giao dịch dân sự hợp pháp nếu vàng thuộc sở hữu hợp pháp và không dùng để thanh toán. Người vay có trách nhiệm hoàn trả đúng loại vàng, số lượng và chất lượng như thỏa thuận. Trường hợp không trả được vàng, việc trả bằng tiền chỉ được thực hiện nếu bên cho vay đồng ý, và giá trị thanh toán phải tính theo giá vàng tại thời điểm và địa điểm trả nợ, không phải theo giá lúc vay.