Tài sản riêng của vợ sau khi chết ai sẽ thừa kế?

Tài sản riêng của vợ sau khi chết ai sẽ thừa kế?

Sau khi người vợ chết, ai có quyền thừa kế tài sản riêng của người vợ theo quy định của pháp luật hiện hành? Liệu người chồng có quyền định đoạt số tài tản riêng đó hay không?

Trong đời sống hôn nhân, việc vợ hoặc chồng có tài sản riêng là điều không hiếm gặp. Tuy nhiên, khi người vợ qua đời, không ít gia đình lúng túng trước câu hỏi: Tài sản riêng đó sẽ được chia thế nào? Ai là người thừa kế?Bài viết này sẽ giúp bạn giải đáp những thắc mắc thường gặp xoay quanh việc chia tài sản riêng trong trường hợp vợ mất.

Tài sản riêng của người vợ sau khi mất sẽ được chia cho ai?

Khi vợ có tài sản riêng nhưng qua đời, ai sẽ là người có quyền thừa kế tài sản đó?

Trả lời vắn tắt: Nếu không có di chúc, tài sản riêng của vợ sẽ được chia theo pháp luật cho chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi (nếu có) ; nếu có di chúc, tài sản thuộc về người được chỉ định trong di chúc.

Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015:

Bộ luật Dân sự 2015

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Dựa trên quy định này:

1) Nếu vợ qua đời mà không để lại di chúc, tài sản riêng của vợ sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, bao gồm chồng, cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi (nếu có).

Lưu ý:

- Nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất (ví dụ: chồng, cha mẹ, con đều đã mất hoặc từ chối nhận), tài sản mới chuyển sang hàng thừa kế thứ hai (ông bà, anh chị em ruột).

- Nếu cả 3 hàng đều không còn ai, tài sản sẽ thuộc về Nhà nước.

2) Nếu vợ có di chúc hợp pháp, tài sản riêng sẽ được phân chia theo nội dung di chúc, bất kể người thừa kế là ai.

Lưu ý: Có trường hợp ngoại lệ gọi là "thừa kế không phụ thuộc di chúc" (Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015). Nếu chồng, con nhỏ, cha mẹ của vợ phụ thuộc vào tài sản đó để sống, họ vẫn được hưởng ít nhất 2/3 suất thừa kế theo pháp luật, dù di chúc không nhắc đến.

Tình huống giả định: 

Bối cảnh: Bà Nguyễn Thị Hương, 45 tuổi, sống tại phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội, qua đời vào ngày 15/3/2024 do tai nạn giao thông. Bà Hương sở hữu một căn nhà trị giá 3 tỷ đồng tại Hà Nội, là tài sản riêng được bố mẹ đẻ tặng cho trước khi kết hôn với ông Trần Văn Minh vào năm 2005. Bà Hương không để lại di chúc. Gia đình bà Hương gồm:

- Ông Trần Văn Minh (chồng, 48 tuổi).

- Bé Trần Thị Lan (con gái chung, 15 tuổi).

- Ông Nguyễn Văn Tâm (cha đẻ của bà Hương, 70 tuổi).

- Bà Lê Thị Hoa (mẹ đẻ của bà Hương, 68 tuổi).
Bà Hương không có cha mẹ nuôi hay con nuôi.

Sự việc: Sau khi bà Hương qua đời, ông Minh cho rằng mình là chồng nên có quyền sở hữu toàn bộ căn nhà (3 tỷ đồng), vì đây là nơi gia đình sinh sống nhiều năm. Tuy nhiên, ông Tâm và bà Hoa (cha mẹ đẻ của bà Hương) phản đối, yêu cầu được chia phần tài sản vì họ thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Bé Lan, được bà ngoại (bà Hoa) đại diện, cũng đòi quyền lợi của mình trong căn nhà.

Xung đột:

- Ông Minh lập luận rằng căn nhà là tài sản chung của vợ chồng, vì ông đã góp tiền sửa chữa và sinh sống cùng bà Hương suốt 20 năm. Ông cho rằng mình nên được hưởng toàn bộ hoặc ít nhất là phần lớn.

- Ông Tâm và bà Hoa dẫn chứng Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, khẳng định tài sản riêng của bà Hương (căn nhà) phải được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất, bao gồm ông Minh (chồng), ông Tâm (cha đẻ), bà Hoa (mẹ đẻ) và bé Lan (con gái). Họ yêu cầu mỗi người được hưởng 750 triệu đồng (3 tỷ chia 4).

Giải quyết:

- Ngày 1/4/2024, ông Tâm và bà Hoa khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, yêu cầu phân chia di sản thừa kế của bà Hương theo pháp luật.

- Ngày 20/4/2024, Tòa án tổ chức phiên xét xử sơ thẩm. Sau khi xem xét giấy tờ chứng minh căn nhà là tài sản riêng của bà Hương (hợp đồng tặng cho từ cha mẹ đẻ trước hôn nhân) và đối chiếu Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, Tòa án kết luận:

- Vì bà Hương không để lại di chúc, tài sản riêng (căn nhà 3 tỷ đồng) phải được chia theo pháp luật.

- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: ông Minh (chồng), ông Tâm (cha đẻ), bà Hoa (mẹ đẻ), bé Lan (con gái). Không có cha mẹ nuôi hay con nuôi.

- Theo khoản 2 Điều 651, những người cùng hàng thừa kế được hưởng phần di sản bằng nhau. Do đó, căn nhà 3 tỷ đồng được chia đều cho 4 người, mỗi người nhận 750 triệu đồng.

- Lập luận của ông Minh về tài sản chung bị bác bỏ, vì không có bằng chứng chứng minh căn nhà đã được sát nhập vào tài sản chung theo thỏa thuận vợ chồng.

- Tòa án ra phán quyết:

+ Ông Minh, ông Tâm, bà Hoa và bé Lan mỗi người được hưởng 750 triệu đồng từ việc bán căn nhà hoặc thỏa thuận phân chia quyền sở hữu.

+ Ông Minh phải chấp hành, không được độc chiếm tài sản.

- Gia đình thống nhất bán căn nhà và chia tiền theo phán quyết vào ngày 30/4/2024.

(Tình huống trên chỉ là tình huống giả định, chỉ mang tính chất tham khảo)

Chồng Có Được Định Đoạt Tài Sản Riêng Của Vợ Khi Vợ Mất Không?

Chồng Có Được Định Đoạt Tài Sản Riêng Của Vợ Khi Vợ Mất Không?

Trả lời vắn tắt: Chồng chỉ có quyền quản lý tài sản của vợ nếu có sự ủy quyền hoặc theo quy định pháp luật.

Theo Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

Điều 44. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng

1. Vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào tài sản chung.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng không thể tự mình quản lý tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lý thì bên kia có quyền quản lý tài sản đó. Việc quản lý tài sản phải bảo đảm lợi ích của người có tài sản.

3. Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó.

4. Trong trường hợp vợ, chồng có tài sản riêng mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản này phải có sự đồng ý của chồng, vợ.

Vậy chồng được định đoạt tài sản riêng của vợ trong hai trường hợp sau:

Trường Hợp 1: Vợ Không Thể Tự Quản Lý Tài Sản.

- Nếu vợ rơi vào tình trạng không thể tự mình quản lý tài sản (ví dụ: bị tai biến, mất trí nhớ, mất năng lực hành vi dân sự) và cũng không ủy quyền cho ai (bằng văn bản hay lời nói) để quản lý thay, thì chồng có quyền bước vào quản lý tài sản đó.

- Điều kiện: Chồng phải quản lý sao cho có lợi cho vợ, không được tự ý bán hay sử dụng vì lợi ích riêng.

Trường Hợp 2: Hoa Lợi, Lợi Tức Là Nguồn Sống Duy Nhất

Hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng (như tiền cho thuê nhà) là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc định đoạt cần sự đồng ý của cả hai.

Trường hợp tài sản riêng của vợ khi vợ mất, không thuộc hai trường hợp mà người chồng có quyền định đọat tài sản riêng của vợ. Do đó tài sản riêng của người vợ khi người vợ mất, cần được chia thừa kế chứ không thuộc quyền định đoạt của người chồng.

Tình huống giả định:

Bối cảnh: Ông Lê Văn Hòa và bà Nguyễn Thị Hồng kết hôn năm 2015, sống tại phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, Đà Nẵng. Bà Hồng sở hữu một mảnh đất trị giá 2 tỷ đồng, là tài sản riêng được bố mẹ đẻ tặng cho trước khi kết hôn. Hai người có một con chung là bé Lê Thị Ngọc (8 tuổi). Ngày 10/3/2025, bà Hồng qua đời do bệnh ung thư, không để lại di chúc hay bất kỳ ủy quyền nào về việc quản lý mảnh đất.

Sự việc: Sau khi bà Hồng mất, ông Hòa quyết định bán mảnh đất với giá 2 tỷ đồng vào ngày 20/3/2025 để lấy tiền xây nhà mới và trang trải cuộc sống cho mình và bé Ngọc. Ông ký hợp đồng bán đất với Công ty Bất động sản Phước Thịnh mà không tham khảo ý kiến gia đình bên vợ. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Tâm – cha đẻ của bà Hồng – phát hiện sự việc và phản đối, cho rằng ông Hòa không có quyền tự ý định đoạt tài sản riêng của con gái mình sau khi bà qua đời.

Xung đột:

- Ông Hòa lập luận rằng theo Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, ông từng quản lý tài sản chung của gia đình khi bà Hồng còn sống, và nay bà mất, ông có quyền tiếp tục định đoạt mảnh đất để nuôi con chung (bé Ngọc). Ông cho rằng việc bán đất là hợp lý vì lợi ích gia đình.

- Ông Tâm phản bác rằng khi bà Hồng qua đời, Điều 44 không còn áp dụng, vì quyền định đoạt tài sản riêng chỉ tồn tại khi vợ còn sống và trong các trường hợp cụ thể (vợ không tự quản lý được hoặc hoa lợi là nguồn sống duy nhất). Ông dẫn thêm Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, khẳng định mảnh đất phải được chia thừa kế cho hàng thừa kế thứ nhất, bao gồm ông Hòa (chồng), ông Tâm (cha đẻ), bà Lê Thị Mai (mẹ đẻ của bà Hồng), và bé Ngọc (con gái), chứ không phải do ông Hòa tự quyết định.

Giải quyết:

- Ngày 1/4/2024,ông Tâm khởi kiện ông Hòa lên Tòa án nhân dân quận Hải Châu, yêu cầu hủy hợp đồng bán đất và phân chia tài sản thừa kế theo pháp luật.

- Ngày 15/4/202,4 Tòa án tổ chức phiên xét xử sơ thẩm. Sau khi xem xét giấy tờ chứng minh mảnh đất là tài sản riêng của bà Hồng và tình trạng pháp lý sau khi bà qua đời, Tòa án kết luận:

+ Theo khoản 2 và khoản 4 Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, chồng chỉ được định đoạt tài sản riêng của vợ khi vợ còn sống và trong hai trường hợp: (1) vợ không tự quản lý được và không ủy quyền, hoặc (2) hoa lợi từ tài sản là nguồn sống duy nhất với sự đồng ý của cả hai. Khi bà Hồng qua đời, quyền định đoạt của ông Hòa chấm dứt, vì bà không còn khả năng đồng ý hay ủy quyền.

+ Theo Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, tài sản riêng của bà Hồng (mảnh đất 2 tỷ đồng) phải được chia thừa kế cho hàng thừa kế thứ nhất, gồm: ông Hòa (chồng), ông Tâm (cha đẻ), bà Mai (mẹ đẻ), và bé Ngọc (con). Vì không có di chúc, mỗi người được hưởng 500 triệu đồng (2 tỷ chia 4).

+ Việc ông Hòa tự ý bán đất là không hợp pháp, vì tài sản đã thuộc di sản thừa kế, không còn thuộc quyền định đoạt riêng của ông.

-  Phán quyết của Tòa án:

+ Hủy hợp đồng bán đất giữa ông Hòa và Công ty Phước Thịnh.

+ Yêu cầu ông Hòa hoàn trả 2 tỷ đồng vào tài khoản chung để phân chia thừa kế, mỗi người thừa kế nhận 500 triệu đồng. Nếu không đủ tiền hoàn trả, ông Hòa phải chịu trách nhiệm bồi thường.

- Ông Hòa chấp hành, phối hợp với gia đình để giải quyết hậu quả vào ngày 25/4/2025.

(Tình huống trên chỉ là tình huống giả định, chỉ mang tính chất tham khảo)

Có Được Sát Nhập Tài Sản Riêng Của Vợ Thành Tài Sản Chung Không?

Có Được Sát Nhập Tài Sản Riêng Của Vợ Thành Tài Sản Chung Không?

Trả Lời Vắn Tắt: Có, tài sản riêng của vợ có thể trở thành tài sản chung nếu cả hai vợ chồng thỏa thuận.

Theo Điều 46 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:

Luật Hôn nhân và Gia đình 2014

Điều 46. Nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung

1. Việc nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào tài sản chung được thực hiện theo thỏa thuận của vợ chồng.

2. Tài sản được nhập vào tài sản chung mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì thỏa thuận phải bảo đảm hình thức đó.

3. Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Như vậy, điều kiện để người chồng sát nhập tài sản riêng của người vợ vào tài sản chung được quy định như sau:

- Thỏa thuận tự nguyện: Việc sát nhập phải do cả hai vợ chồng đồng ý, không ai được ép buộc. Thỏa thuận có thể bằng lời nói, văn bản, hoặc công chứng (tùy loại tài sản).

- Hình thức luật định: Nếu tài sản là bất động sản (như nhà, đất), thỏa thuận phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định pháp luật về đất đai. Với tài sản khác (như tiền, xe), có thể chỉ cần thỏa thuận miệng hoặc văn bản đơn giản.

- Hậu quả sau sát nhập: Sau khi sát nhập, tài sản thuộc về cả hai, và mọi nghĩa vụ liên quan (như nợ từ tài sản đó) sẽ được thanh toán bằng tài sản chung, trừ khi vợ chồng thỏa thuận khác.

Tình huống giả định: 

Bối cảnh: Ông Trần Văn Long và bà Nguyễn Thị Mai kết hôn năm 2018, sống tại phường Bến Nghé, quận 1, TP.HCM. Trước khi kết hôn, bà Mai sở hữu một căn nhà trị giá 4 tỷ đồng tại quận 7, là tài sản riêng được bố mẹ đẻ tặng cho năm 2016. Hai người có một con chung là bé Trần Thị Ngọc (5 tuổi). Năm 2024, gia đình gặp khó khăn tài chính do ông Long mất việc, và họ cần vay ngân hàng 2 tỷ đồng để kinh doanh nhỏ.

Sự việc: Để vay được ngân hàng, ông Long đề nghị bà Mai sát nhập căn nhà riêng vào tài sản chung của vợ chồng, dùng nó làm tài sản thế chấp. Ngày 10/3/2024, hai người cùng đến Văn phòng Công chứng quận 1 lập văn bản thỏa thuận sát nhập căn nhà vào tài sản chung, ký tên đầy đủ và công chứng hợp lệ. Sau đó, họ vay ngân hàng 2 tỷ đồng, với căn nhà là tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, sau khi vay tiền, ông Long sử dụng 1 tỷ đồng để đầu tư kinh doanh thất bại, còn 1 tỷ đồng để mua xe hơi cho cá nhân mình, không bàn bạc với bà Mai.

Bà Mai phát hiện sự việc và phản đối, cho rằng dù căn nhà đã sát nhập vào tài sản chung, ông Long không được tự ý định đoạt số tiền vay mà không có sự đồng ý của bà, vì đây là nghĩa vụ liên quan đến tài sản ban đầu của bà.

Xung đột:

- Bà Mai lập luận rằng theo Điều 46 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc sát nhập căn nhà là hợp pháp do có thỏa thuận công chứng, nhưng nghĩa vụ liên quan (nợ ngân hàng 2 tỷ đồng) phải được thanh toán bằng tài sản chung và cần sự đồng ý của cả hai. Bà cho rằng ông Long đã vi phạm khi tự ý dùng tiền không vì lợi ích chung của gia đình.

- Ông Long phản bác rằng một khi căn nhà đã thành tài sản chung, ông có quyền ngang bằng với bà Mai trong việc định đoạt, và việc mua xe là để phục vụ gia đình. Ông cho rằng thỏa thuận sát nhập không yêu cầu phải đồng ý từng quyết định sau đó.

Giải quyết:

- Ngày 1/4/2024, bà Mai khởi kiện ông Long lên Tòa án nhân dân quận 1, yêu cầu làm rõ quyền định đoạt tài sản chung và trách nhiệm với khoản vay 2 tỷ đồng.

- Ngày 15/4/2024, Tòa án tổ chức phiên xét xử sơ thẩm. Sau khi xem xét văn bản thỏa thuận công chứng và tình hình sử dụng tiền vay, Tòa án kết luận:

+ Theo khoản 1 Điều 46 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc sát nhập căn nhà riêng của bà Mai vào tài sản chung là hợp pháp, vì có sự thỏa thuận tự nguyện giữa hai vợ chồng.

+ Theo khoản 2, vì căn nhà là bất động sản, thỏa thuận đã được công chứng đúng hình thức luật định, nên việc sát nhập hoàn toàn có hiệu lực pháp lý.

+ Theo khoản 3, nghĩa vụ liên quan đến tài sản đã sát nhập (nợ 2 tỷ đồng) phải được thanh toán bằng tài sản chung. Tuy nhiên, ông Long sử dụng 1 tỷ đồng mua xe mà không có sự đồng ý của bà Mai, vi phạm nguyên tắc quản lý tài sản chung (theo Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014), chứ không liên quan đến thỏa thuận sát nhập.

- Phán quyết của Tòa án:

+ Xác nhận căn nhà 4 tỷ đồng là tài sản chung của ông Long và bà Mai sau khi sát nhập.

+ Ông Long phải bồi thường 1 tỷ đồng (tiền mua xe) vào tài sản chung, để cùng bà Mai chịu trách nhiệm trả nợ ngân hàng 2 tỷ đồng. Nếu không thực hiện, bà Mai có quyền yêu cầu chia tài sản chung để bảo vệ quyền lợi của mình.

- Ông Long chấp hành, hoàn trả 1 tỷ đồng vào tài khoản chung vào ngày 25/4/2024.

(Tình huống trên chỉ là tình huống giả định, mang tính chất tham khảo)

Kết luận

Khi vợ qua đời, tài sản riêng được chia đều cho chồng, cha mẹ, con nếu không có di chúc; có di chúc thì theo di chúc. Chồng chỉ định đoạt tài sản riêng khi vợ còn sống, trong trường hợp vợ không tự quản lý hoặc tài sản là nguồn sống duy nhất; khi vợ mất, tài sản phải chia thừa kế. Tài sản riêng có thể thành tài sản chung nếu vợ chồng thỏa thuận đúng pháp lý. Nên lập di chúc hoặc thỏa thuận tài sản rõ ràng để tránh tranh chấp.

Như Quỳnh
Biên tập

Là một biên tập viên tận tâm và đam mê ngôn ngữ, Như Quỳnh luôn nỗ lực mang đến những nội dung chất lượng, chính xác và hấp dẫn cho độc giả. Với kinh nghiệm dày dặn trong lĩnh vực biên tập. Ngoài công...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Choose your rating score:
Name (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Rating content