Trong thời đại số, tình trạng giả mạo danh tính để lừa đảo chuyển tiền ngày càng phổ biến, đặc biệt thông qua mạng xã hội và ứng dụng nhắn tin. Tuy nhiên, khi người bị hại mất tiền, câu hỏi đặt ra là: ai là người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại? Câu trả lời không đơn giản vì còn phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1. Người có hành vi giả mạo phải chịu trách nhiệm không?
Theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trong các vụ lừa đảo qua mạng, khi một người bị mạo danh để kẻ xấu nhắn tin lừa đảo chuyển tiền, thiệt hại tài chính thực tế là điều không thể phủ nhận. Theo Điều 584 Bộ luật Dân sự, bất kỳ ai gây thiệt hại cho người khác bằng hành vi trái pháp luật thì phải có trách nhiệm bồi thường. Đây là nguyên tắc quan trọng của trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Người trực tiếp thực hiện hành vi giả mạo, gửi thông tin gian dối và chiếm đoạt tài sản rõ ràng là người gây ra thiệt hại. Vì vậy, họ là người có nghĩa vụ bồi thường cho nạn nhân, bất kể số tiền lớn hay nhỏ. Việc bồi thường là để khôi phục lại tình trạng tài sản ban đầu cho người bị hại, nếu có thể.
Để buộc người giả mạo bồi thường, cần có đủ các yếu tố:
- Có hành vi trái pháp luật (giả mạo, gian dối)
- Có thiệt hại thực tế xảy ra (nạn nhân mất tiền)
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại
- Người gây thiệt hại có lỗi (chủ ý hoặc cẩu thả)
Khi hội đủ các yếu tố này, người bị hại có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, thông qua thương lượng, hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết.
Xét dưới khía cạnh luật Hình sự, khi một người sử dụng thông tin giả mạo để khiến người khác chuyển tiền cho mình, đây là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Điều 174 Bộ luật Hình sự quy định rất rõ: bất kỳ ai sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, dù chỉ từ 2 triệu đồng trở lên, đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hành vi gian dối trong các vụ giả mạo thường bao gồm: giả danh bạn bè hoặc người thân, sử dụng hình ảnh, tên tuổi, và tài khoản mạng xã hội để tạo lòng tin. Sau đó, kẻ lừa đảo đưa ra lý do cấp bách (chuyển tiền gấp, hỗ trợ người thân, nộp phí…) khiến người bị hại mất cảnh giác và tự nguyện chuyển tiền. Đây chính là thủ đoạn lừa đảo đặc trưng.
Tùy vào số tiền chiếm đoạt, hành vi lặp lại hay có tổ chức, người phạm tội có thể bị xử phạt từ 6 tháng đến 20 năm tù, thậm chí tù chung thân nếu số tiền cực lớn hoặc có tình tiết tăng nặng.
Ngoài hình phạt tù, tùy vào mức độ nghiêm trọng của hành vi và giá trị tài sản mà người phạm tội có thể bị:
- Tịch thu một phần tài sản: Chỉ tịch thu những tài sản có liên quan đến hành vi phạm tội hoặc phần tài sản không ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người phạm tội và gia đình họ.
- Tịch thu toàn bộ tài sản: Áp dụng trong các trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, như tội phạm có tổ chức, gây thiệt hại lớn, có tính chất nguy hiểm cao và thu lợi bất chính lớn từ hành vi phạm tội.
Tình huống thực tế
Ngày 1/4/2025, Công an tỉnh Thanh Hóa bắt giữ hai đối tượng Nguyễn Thành Đông (SN 1997) và Nguyễn Công Chánh Hưng (SN 2004), trú tại huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Trước đó, bà L.T.V (SN 1963, trú tại huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa) tố giác bị một đối tượng giả danh người thân trên Facebook, yêu cầu chuyển tiền đổi ngoại tệ và đã bị lừa gần 1,5 tỷ đồng.
Qua điều tra, lực lượng chức năng xác định hai đối tượng đã tạo tài khoản Facebook giả mạo người Việt Nam ở nước ngoài, liên hệ với người thân của họ tại Việt Nam để đề nghị chuyển tiền.
Thủ đoạn của Nguyễn Thành Đông và Nguyễn Công Chánh Hưng cho thấy sự chuẩn bị kỹ lưỡng và tinh vi. Trước tiên, chúng lên mạng nghiên cứu cách thức lừa đảo, sau đó mua sim rác, thiết bị điện tử và lập tài khoản Facebook giả mạo những người Việt Nam đang sinh sống, làm việc ở nước ngoài. Để tăng tính thuyết phục, các đối tượng xây dựng trang cá nhân có đầy đủ hình ảnh, thông tin tương tự người thật, nhằm tạo lòng tin với người thân của họ tại Việt Nam.
Sau khi tạo được sự tin tưởng, các đối tượng nhắn tin cho người thân của nạn nhân, viện lý do đang cần đổi tiền gấp hoặc đầu tư, nhờ chuyển tiền vào các tài khoản ngân hàng do chúng cung cấp. Đặc biệt, chúng còn móc nối với các nhóm rửa tiền trên Telegram để sử dụng tài khoản của bên thứ ba, khiến việc truy vết trở nên khó khăn hơn.
Sự kết hợp giữa công nghệ thông tin và thủ đoạn giả danh người thân đã khiến nhiều nạn nhân mất cảnh giác, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về tài sản. Ngoài vụ việc tại Thanh Hóa, nhóm này còn thực hiện một vụ lừa đảo khác tại quận Cầu Giấy, Hà Nội với số tiền gần 350 triệu đồng. Công an đã thu giữ nhiều thiết bị điện tử và tiền mặt, đồng thời tiếp tục điều tra mở rộng vụ án.
(Nguồn: Báo Tiền Phong)
2. Chủ thể nào khác có thể phải chịu trách nhiệm liên đới?
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015:
Điều 584. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Khi xảy ra một vụ giả mạo để lừa đảo chuyển tiền, kẻ giả mạo là người phải chịu trách nhiệm chính về cả hình sự lẫn dân sự. Tuy nhiên, trong nhiều tình huống thực tế, không chỉ có một người liên quan đến thiệt hại. Pháp luật dân sự Việt Nam – đặc biệt là Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 – cho phép xem xét trách nhiệm của những người hoặc tổ chức khác nếu có lỗi trong việc để xảy ra hậu quả. Điều này dẫn đến câu hỏi: ngoài kẻ lừa đảo, còn ai có thể bị buộc bồi thường thiệt hại?
Trước hết, người bị mạo danh thường là nạn nhân về mặt danh dự và uy tín. Nhưng nếu họ đã từng công khai quá nhiều thông tin cá nhân như ảnh chụp căn cước công dân, tài khoản ngân hàng, chữ ký, hoặc biết rằng có người đang giả mạo mình nhưng không cảnh báo hay có động thái gì để ngăn chặn, thì họ vẫn có thể bị xem xét trách nhiệm. Dù không cố ý, sự cẩu thả hoặc im lặng trong một số trường hợp có thể bị Tòa án đánh giá là có lỗi gián tiếp, và phải bồi thường một phần nếu chứng minh được có liên hệ nhân quả giữa hành vi và thiệt hại.
Một trong những chủ thể thường xuyên bị xem xét trách nhiệm là ngân hàng hoặc các tổ chức trung gian thanh toán. Trong bối cảnh tội phạm công nghệ phát triển nhanh, trách nhiệm của ngân hàng không chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ mà còn phải đảm bảo thực hiện đúng quy trình xác minh danh tính, kiểm soát tài khoản và phản ứng kịp thời khi có cảnh báo gian lận. Nếu ngân hàng mở tài khoản dựa trên giấy tờ giả mà không phát hiện, hoặc xử lý chậm khiến kẻ gian kịp rút hết tiền, thì hoàn toàn có thể bị người bị hại khởi kiện yêu cầu bồi thường.
Mặc dù ít khi bị buộc bồi thường trong thực tế, các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Zalo hoặc Telegram vẫn có thể đứng trước rủi ro pháp lý nếu không phối hợp xử lý khi được cảnh báo về tài khoản giả mạo. Dù các nền tảng thường có chính sách miễn trừ trách nhiệm, nhưng nếu bị phát hiện bỏ qua các báo cáo vi phạm hoặc không có cơ chế kiểm duyệt hiệu quả, họ có thể bị yêu cầu chịu trách nhiệm dân sự trong tương lai, đặc biệt khi hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng hoàn thiện trong lĩnh vực bảo vệ người dùng trên không gian mạng.
Một đối tượng khác cũng cần lưu ý là những người bị lợi dụng làm trung gian. Chẳng hạn, người cho mượn tài khoản ngân hàng, người đứng tên hộ để mở tài khoản, hoặc người giúp xác minh giấy tờ mà biết rõ hoặc đáng ra phải biết đó là hành vi phục vụ lừa đảo. Nếu họ biết mục đích và vẫn tiếp tay, thì không chỉ bị xem là đồng phạm hình sự theo Bộ luật Hình sự mà còn phải bồi thường dân sự theo quy định tại Điều 587 Bộ luật Dân sự về trách nhiệm liên đới.
Tình huống giả định
Tối ngày 24/11, khi đang livestream bán hàng như thường lệ, chị Lê Thị Hương bất ngờ nhận được tin nhắn Zalo từ một tài khoản có tên và ảnh đại diện giống hệt em họ – anh Nguyễn Quốc Bảo. Tin nhắn có vẻ rất cấp bách: “Chị ơi, em đang kẹt tiền cọc nhà. Cần gấp 380 triệu trong tối nay. Mai mốt em gửi lại. Chuyển vào tài khoản này giúp em nha, đừng nói ai biết!”
Tin nhắn đến đúng thời điểm chị Hương bận rộn, cộng thêm việc tài khoản kia dùng đúng ảnh và cách xưng hô quen thuộc, khiến chị không mảy may nghi ngờ. Không gọi xác minh, chị chuyển ngay toàn bộ số tiền theo yêu cầu.
Tối hôm sau, khi chị gọi điện cho Bảo để hỏi chuyện, mới bàng hoàng phát hiện Bảo hoàn toàn không nhắn tin, không vay tiền, và cũng không biết chuyện gì đang xảy ra.
Qua đơn trình báo, cơ quan công an xác định kẻ đứng sau vụ lừa đảo là Nguyễn Văn Khải – một người từng là khách hàng quen biết chị Hương khi mua mỹ phẩm online. Khải đã theo dõi các bài đăng cá nhân, tương tác và bình luận để thu thập thông tin về chị Hương và người thân.
Sau đó, Khải lập một tài khoản Zalo giả mạo Nguyễn Quốc Bảo, dùng ảnh đại diện giống thật, bắt chước cách nhắn tin để tạo lòng tin. Mọi hành động đều được lên kế hoạch kỹ lưỡng, lợi dụng đúng thời điểm và tâm lý “tin người thân”.
Đáng chú ý, Khải không nhận tiền trực tiếp, mà nhờ Trần Minh Khang – một người bạn – đứng tên tài khoản để nhận tiền “giùm”. Khi được hỏi, Khang khai rằng chỉ nghĩ là tiền đặt cọc bán xe, nên không thắc mắc nguồn tiền, không báo lại cho cơ quan nào, và đã rút hết tiền theo chỉ đạo của Khải.
Nguyễn Văn Khải bị khởi tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015. Với tình tiết tăng nặng là có kế hoạch, thủ đoạn tinh vi và số tiền chiếm đoạt lớn, Khải bị tuyên án tù, đồng thời phải bồi thường toàn bộ 380 triệu đồng cho chị Hương.
Trần Minh Khang, dù không trực tiếp thực hiện hành vi gian dối, nhưng đã cho mượn tài khoản, rút tiền, tiếp tay tích cực cho hành vi lừa đảo. Tòa án xác định Khang có lỗi rõ ràng trong việc không kiểm tra, không cảnh giác, và tuyên liên đới bồi thường dân sự cùng với Khải.
Về phần Nguyễn Quốc Bảo, người bị mạo danh, cơ quan điều tra kết luận không có lỗi: anh không công khai thông tin nhạy cảm, không biết bị giả mạo, cũng không có hành vi nào tiếp tay hoặc gián tiếp gây ra hậu quả. Do đó, anh không phải chịu trách nhiệm gì trong vụ việc.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo)
Kết Luận
Kẻ giả mạo là người chịu trách nhiệm chính về cả hình sự và dân sự. Tuy nhiên, nếu người bị mạo danh có lỗi để lộ thông tin, hoặc ngân hàng, trung gian thanh toán vi phạm quy trình, chậm xử lý cảnh báo, thì họ cũng có thể bị liên đới bồi thường. Ai có lỗi, người đó phải chịu trách nhiệm tương ứng.