Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực khi nào?

Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực khi nào?

Bản án hình sự sơ thẩm có thể có hiệu lực sau khi hết thời hạn kháng cáo hoặc được thi hành ngay nếu thuộc trường hợp đặc biệt theo luật.

Trong tố tụng hình sự, việc xác định thời điểm bản án sơ thẩm có hiệu lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình thi hành án. Một bản án có thể được thi hành ngay hoặc chỉ có hiệu lực sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định. Một số trường hợp đặc biệt cũng được thi hành ngay dù bản án chưa có hiệu lực chung. Đồng thời, quyền kháng cáo bản án sơ thẩm chỉ được trao cho một số nhóm người cụ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Bản án sơ thẩm có hiệu lực trong những trường hợp nào?

Bản án sơ thẩm có hiệu lực trong những trường hợp nào?

Trả lời vắn tắt: Bản án sơ thẩm có hiệu lực khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có ai thực hiện quyền này hoặc trong các trường hợp đặc biệt được thi hành ngay theo luật.

Căn cứ khoản 1 Điều 333, Điều 343 và Điều 363 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015

Điều 333. Thời hạn kháng cáo

1. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

...

Điều 343. Hiệu lực của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không có kháng cáo, kháng nghị

Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

...

Điều 363. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành ngay

Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị.

Hình phạt cảnh cáo được thi hành ngay tại phiên tòa.

Không phải tất cả bản án sơ thẩm đều có hiệu lực ngay sau khi tuyên. Thông thường, bản án sẽ chỉ có hiệu lực sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và không có ai sử dụng quyền này. Cụ thể, nếu trong vòng 15 ngày kể từ ngày tuyên án (hoặc từ ngày nhận bản án đối với người vắng mặt), không có kháng cáo hoặc kháng nghị nào được gửi đến tòa án, thì bản án sơ thẩm sẽ có hiệu lực thi hành.

Ngoài ra, có một số trường hợp đặc biệt mà bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, ngay cả khi vẫn còn trong thời hạn kháng cáo. Đó là các trường hợp bị cáo được tuyên không phạm tội, được miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, hoặc bị tuyên án treo, hoặc thời gian phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian đã tạm giam. Việc thi hành ngay này nhằm bảo đảm quyền lợi cho người bị xét xử, tránh tình trạng giam giữ không cần thiết hoặc kéo dài thủ tục không hợp lý.

Tình huống giả định:

Bị cáo được tuyên miễn hình phạt và được thả ngay tại tòa

Tình huống giả định - Bản án sơ thẩm có hiệu lực trong những trường hợp nào?

  • Khởi tố và tạm giam bị cáo
    Tháng 5/2024, anh Nguyễn Hoàng Long, ngụ tại Phường Trần Phú, TP. Quảng Ngãi, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi khởi tố và bắt tạm giam về hành vi trộm cắp tài sản. Anh Long bị cáo buộc đột nhập vào nhà người quen để lấy chiếc điện thoại trị giá khoảng 2,8 triệu đồng trong lúc say xỉn.

  • Xét xử sơ thẩm và tuyên miễn hình phạt
    Tháng 6/2025, Tòa án nhân dân TP. Quảng Ngãi mở phiên tòa sơ thẩm xét xử Nguyễn Hoàng Long. Sau khi xem xét quá trình tạm giam hơn 12 tháng, hoàn cảnh gia đình khó khăn và việc bị cáo tự nguyện bồi thường đầy đủ cho bị hại, Hội đồng xét xử tuyên miễn hình phạt cho bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự và cho rằng thời gian tạm giam là đủ để răn đe.

  • Bản án được thi hành ngay dù còn trong thời hạn kháng cáo
    Ngay sau phiên tòa, anh Long được trả tự do tại chỗ. Mặc dù bản án vẫn còn trong thời hạn kháng cáo, nhưng theo khoản 2 Điều 363 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bản án tuyên miễn hình phạt vẫn được thi hành ngay.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)

2. Những người nào được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm?

Những người nào được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm?

Trả lời vắn tắt: Bị cáo, bị hại, đương sự và một số người có quyền lợi liên quan đều có thể kháng cáo bản án sơ thẩm nếu thấy cần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Căn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015

Điều 331. Người có quyền kháng cáo

1. Bị cáo, bị hại, người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.

2. Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất mà mình bào chữa.

3. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.

4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

5. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.

6. Người được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.

Kháng cáo là một quyền tố tụng quan trọng, cho phép cá nhân hoặc tổ chức có liên quan yêu cầu tòa án cấp trên xem xét lại bản án nếu cho rằng có dấu hiệu xử sai, thiếu công bằng hoặc xâm phạm quyền lợi hợp pháp của mình. Theo quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự, có 6 nhóm chủ thể có quyền kháng cáo.

Thứ nhất là bị cáo và bị hại, những người trực tiếp liên quan đến vụ án và chịu tác động lớn nhất từ bản án sơ thẩm. Người đại diện hợp pháp của họ cũng có thể thay mặt thực hiện quyền kháng cáo trong trường hợp họ chưa đủ tuổi hoặc mất năng lực hành vi dân sự.

Thứ hai là người bào chữa, nhưng chỉ trong trường hợp người được bào chữa là người dưới 18 tuổi hoặc có nhược điểm về tâm thần, thể chất. 

Thứ ba là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường là những cá nhân hoặc tổ chức có tranh chấp về bồi thường thiệt hại trong cùng vụ án. Họ chỉ có thể kháng cáo phần bản án có ảnh hưởng đến quyền lợi dân sự của mình.

Thứ tư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại, đương sự là người dưới 18 tuổi hoặc có nhược điểm về sức khỏe. 

Cuối cùng là một quy định đặc biệt người được tuyên không có tội vẫn có quyền kháng cáo nhưng không phải để yêu cầu tuyên có tội, mà là yêu cầu tòa án cấp trên xác định rõ lý do không có tội khác phù hợp hơn.

Tình huống giả định:

Người bị tuyên không có tội vẫn kháng cáo để yêu cầu làm rõ căn cứ tuyên án

Tình huống giả định - Những người nào được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm?

  • Bị truy tố về tội trộm cắp tài sản
    Tháng 3/2025, anh Trần Quốc Dũng (trú tại Phường Hoàng Văn Thụ, TP. Lạng Sơn) bị khởi tố về hành vi lén lấy ví tiền trị giá hơn 3 triệu đồng của đồng nghiệp trong văn phòng. Dù anh Dũng một mực kêu oan, cơ quan điều tra vẫn đề nghị truy tố theo Điều 173 Bộ luật Hình sự về tội trộm cắp tài sản.

  • Bản án sơ thẩm tuyên không phạm tội
    Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 10/6/2025, Tòa án nhân dân TP. Lạng Sơn tuyên anh Dũng không phạm tội, với lý do hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm vì không đủ căn cứ chứng minh ý chí chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, trong phần tuyên án, bản án lại ghi nhận việc anh Dũng “tự ý sử dụng tài sản của người khác khi không được cho phép”, tạo ra nguy cơ ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của anh.

  • Người được tuyên không có tội tiến hành kháng cáo
    Sau khi nhận bản án, anh Dũng gửi đơn kháng cáo lên TAND tỉnh Lạng Sơn để yêu cầu sửa phần nhận định trong bản án sơ thẩm. Căn cứ vào khoản 6 Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người được tuyên không có tội có quyền kháng cáo về các căn cứ mà bản án xác định là không có tội, nhằm bảo vệ danh dự, tránh các suy đoán bất lợi trong tương lai.

(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)

3. Kết luận

Trong tố tụng hình sự, bản án sơ thẩm chỉ có hiệu lực khi đáp ứng các điều kiện luật định, thông thường là sau khi hết thời hạn kháng cáo hoặc trong một số trường hợp đặc biệt được thi hành ngay. Đồng thời, không phải ai cũng được quyền kháng cáo bản án, mà chỉ những người có liên quan trực tiếp đến vụ án và được luật cho phép.

Tố Uyên
Biên tập

Là một người yêu thích phân tích các vụ việc pháp lý và luôn cập nhật các vấn đề thời sự pháp luật, Uyên luôn tìm kiếm sự cân bằng giữa độ chính xác và tính truyền cảm trong từng sản phẩm biên tập. Đố...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá