Tự ý đăng tải bài viết của người khác lên mạng xã hội bị xử lý như thế nào?

Tự ý đăng tải bài viết của người khác lên mạng xã hội bị xử lý như thế nào?

Các bài viết được bảo hộ quyền tác giả không được tự ý sao chép khi chưa có sự cho phép của tác giả. Nếu vi phạm sẽ bị xử phạt hành chính từ 15-35 triệu đồng.

Việc sử dụng bài viết của người khác trên mạng xã hội mà không xin phép hay dẫn nguồn có thể dẫn đến hậu quả pháp lý nghiêm trọng theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam. Các bài viết thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả như tác phẩm báo chí hay văn học, không được phép sao chép nếu không có sự đồng ý của tác giả. Trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật cho phép sử dụng bài viết mà không cần xin phép hay trả tiền bản quyền. Hành vi vi phạm quyền tác giả, như đăng bài không dẫn nguồn có thể bị phạt nặng, từ phạt hành chính đến buộc gỡ nội dung.

Có được tự ý đăng tải bài viết của người khác lên mạng xã hội không?

Có được tự ý đăng tải bài viết của người khác không?

Trả lời vắn tắt: Không được tự ý đăng tải bài viết của người khác nếu bài viết đó được bảo hộ quyền tác giả, trừ khi có sự cho phép của chủ sở hữu hoặc thuộc trường hợp miễn trừ theo luật.

Căn cứ theo Điều 14, Điều 18, Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2022) quy định như sau về các bài viết được bảo hộ quyền tác giả.

Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2022)

Điều 14. Các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả.

1. Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ bao gồm:
a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác;
b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác;
c) Tác phẩm báo chí;
d) Tác phẩm âm nhạc;
đ) Tác phẩm sân khấu;
e) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo ra theo phương pháp tương tự (sau đây gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
g) Tác phẩm mỹ thuật, mỹ thuật ứng dụng;
h) Tác phẩm nhiếp ảnh;
i) Tác phẩm kiến trúc;
k) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học;
l) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
m) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.

2. Tác phẩm phái sinh chỉ được bảo hộ theo quy định tại khoản 1 Điều này nếu không gây phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh.

3. Tác phẩm được bảo hộ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của người khác.

4. Chính phủ hướng dẫn cụ thể về các loại hình tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này.

...

Điều 18. Quyền tác giả.

Quyền tác giả đối với tác phẩm quy định tại Luật này bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.

Điều 19. Quyền nhân thân

Quyền nhân thân bao gồm:

1. Đặt tên cho tác phẩm. Tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản quy định tại khoản 1 Điều 20 của Luật này;

2. Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;

3. Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

4.  Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc;  không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức  nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

Điều 20. Quyền tài sản
Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:
a) Làm tác phẩm phái sinh;

b) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;

c) Sao chép tác phẩm;

d) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;

đ) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;

e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.

Các quyền quy định tại khoản 1 Điều này do tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này.

Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 Điều này và khoản 3 Điều 19 của Luật này phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền tác giả đối với các bài viết thể hiện dưới dạng văn bản nếu được sáng tạo bởi chính tác giả. Điều kiện để được bảo hộ là tác phẩm phải mang tính sáng tạo, không được sao chép từ nơi khác. Chỉ cần bài viết thỏa mãn các tiêu chí này, dù chưa đăng ký bản quyền, vẫn được pháp luật bảo vệ.

Khi đó, người sở hữu quyền tác giả sẽ có đầy đủ quyền nhân thân và  quyền tài sản, bao gồm cả quyền sao chép, phân phối, truyền đạt… theo quy định tại Điều 19 và Điều 20 Luật Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2022). Bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khai thác, sử dụng, sao chép bài viết đều phải xin phép, trả tiền bản quyền (nếu có), trừ các trường hợp được miễn theo luật.

Tình huống giả định

Chị Lê Hồng Ngọc, một quản trị viên của fanpage “Du Lịch Bốn Phương” tại Hà Nội, tình cờ đọc được bài viết “Hành trình khám phá Tây Bắc” của nhà báo Trần Quốc Huy đăng trên báo Hà Nội Mới. Bài viết dài 1500 từ, mô tả chi tiết trải nghiệm du lịch qua các tỉnh Tây Bắc với văn phong sống động, hình ảnh minh họa độc đáo, và những câu chuyện cá nhân đậm chất sáng tạo. Thấy bài viết thu hút, chị Ngọc sao chép toàn bộ nội dung, bao gồm cả các đoạn mô tả cảm xúc và hình ảnh, rồi đăng lên fanpage của mình để quảng bá tour du lịch do công ty chị hợp tác tổ chức. Chị không xin phép tác giả, không dẫn nguồn, và còn chỉnh sửa tiêu đề thành “Khám phá Tây Bắc cùng Du Lịch Bốn Phương” để thu hút thêm lượt tương tác. Bài đăng nhanh chóng nhận được hàng nghìn lượt thích và chia sẻ, giúp fanpage tăng đáng kể lượng theo dõi.

Một tuần sau, Trần Quốc Huy phát hiện bài viết của mình bị sao chép và gửi khiếu nại đến Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội, yêu cầu xử lý hành vi vi phạm quyền tác giả. Ông Huy cung cấp bằng chứng rằng bài viết “Hành trình khám phá Tây Bắc” là tác phẩm báo chí, được bảo hộ theo khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, vì mang dấu ấn sáng tạo riêng với lối viết độc đáo và không sao chép từ bất kỳ nguồn nào. Ông cũng khẳng định chưa từng cho phép bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào sử dụng bài viết của mình.

Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội áp dụng Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, xác định rằng quyền sao chép bài viết thuộc về chủ sở hữu quyền tác giả (Trần Quốc Huy) và bất kỳ hành vi sao chép nào, dù trực tiếp hay gián tiếp, phải được phép của ông. Hành vi của chị Ngọc vi phạm quyền tài sản của tác giả, vì chị không chỉ đăng tải toàn bộ bài viết mà còn sử dụng vào mục đích thương mại (quảng bá tour du lịch) mà không trả tiền bản quyền. Ngoài ra, việc không dẫn nguồn còn xâm phạm quyền nhân thân của tác giả, cụ thể là quyền đứng tên tác giả theo Điều 18.

Sở tiếp tục áp dụng Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 28/2017/NĐ-CP), quyết định phạt chị Ngọc 25 triệu đồng vì hành vi sao chép tác phẩm không phép. Đồng thời, fanpage “Du Lịch Bốn Phương” bị buộc gỡ bỏ bài viết vi phạm và đăng bài xin lỗi công khai trong vòng 7 ngày. Sau vụ việc, chị Ngọc liên hệ với Trần Quốc Huy để xin lỗi và đề nghị hợp tác, cam kết sẽ dẫn nguồn đầy đủ và xin phép nếu sử dụng nội dung trong tương lai. Vụ việc này khiến chị Ngọc nhận ra tầm quan trọng của việc tôn trọng quyền tác giả, đặc biệt khi sử dụng nội dung trên mạng xã hội để phục vụ mục đích thương mại.

(Tình huống trên đây là giả định, chỉ mang tính tham khảo)

Đăng Bài Viết Của Người Khác Không Xin Phép Bị Phạt Bao Nhiêu?

Đăng Bài Viết Của Người Khác Không Xin Phép Bị Phạt Bao Nhiêu?

Trả lời vắn tắt: Cá nhân đăng bài viết của người khác không xin phép bị phạt 15-35 triệu đồng, tổ chức bị phạt 30-70 triệu đồng, kèm theo buộc gỡ nội dung vi phạm.

Căn cứ theo, khoản 2, Điều 2 và Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 28/2017/NĐ-CP) quy định như sau:

Nghị định 131/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 28/2017/NĐ-CP)

Điều 2.Quy định khung phạt tiền, thẩm quyền phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức.

.......

2. Khung phạt tiền quy định tại Chương II Nghị định này là khung phạt tiền áp dụng đối với cá nhân, trừ trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 5; Khoản 1 và Điểm b Khoản 2 Điều 7 Nghị định này. Đối với cùng một hành vi vi phạm, khung phạt tiền đối với tổ chức gấp 02 lần khung phạt tiền đối với cá nhân.

........

Điều 18. Hành vi xâm phạm quyền sao chép tác phẩm.

1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này.

Việc đăng lại bài viết được bảo hộ quyền tác giả lên mạng xã hội như Facebook, TikTok, YouTube… mà không có sự đồng ý, không dẫn nguồn, hoặc không trả tiền bản quyền nếu có đều là hành vi sao chép trái phép. Tùy theo mức độ, cá nhân có thể bị phạt từ 15–35 triệu đồng, còn tổ chức bị phạt gấp đôi, từ 30–70 triệu đồng.

Ngoài ra, còn có biện pháp khắc phục hậu quả như buộc gỡ bỏ bài viết trên môi trường mạng, tiêu hủy bản sao vi phạm.

Ví dụ thực tế

Vào ngày 28/6/2013, Sở Thông tin và Truyền thông TP. Đà Nẵng đã xử phạt Công ty TNHH Bản tin Việt (128 Nguyễn Lâm, tổ 5A, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng) vì hành vi sao chép bài viết mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. Theo ông Nguyễn Chương Đức, Chánh Thanh tra Sở, trang thông tin điện tử www.vntimes.com.vn do công ty này quản lý đã đăng tải nhiều bài viết và hình ảnh từ Tạp chí điện tử Văn Hiến Việt Nam mà không xin phép, không dẫn nguồn đầy đủ theo quy định. Các bài viết này là tác phẩm báo chí, được bảo hộ quyền tác giả theo khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, vì mang dấu ấn sáng tạo riêng với nội dung phân tích văn hóa và xã hội độc đáo.

Trước đó, Cục Quản lý Phát thanh, Truyền hình và Thông tin điện tử (Bộ Thông tin và Truyền thông) nhận được công văn từ Tạp chí Văn Hiến Việt Nam, phản ánh rằng www.vntimes.com.vn đã sao chép nguyên văn nhiều bài viết từ tạp chí mà không có sự đồng ý của tòa soạn. Tạp chí cũng tuyên bố không cho phép trang này trích dẫn nội dung của mình. Qua kiểm tra, Sở xác định hành vi của Công ty TNHH Bản tin Việt vi phạm quyền sao chép, thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 18 Nghị định 131/2013/NĐ-CP (sửa đổi bởi Nghị định 28/2017/NĐ-CP). Cụ thể, công ty đã sao chép tác phẩm báo chí mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, gây thiệt hại đến quyền lợi của Tạp chí Văn Hiến Việt Nam.

Sở Thông tin và Truyền thông TP. Đà Nẵng áp dụng khoản 2 Điều 2 Nghị định 131/2013/NĐ-CP, quyết định phạt Công ty TNHH Bản tin Việt 30 triệu đồng, vì công ty là tổ chức vi phạm, mức phạt gấp đôi so với cá nhân (15 triệu đồng). Ngoài ra, công ty bị buộc gỡ bỏ toàn bộ nội dung vi phạm trên trang www.vntimes.com.vn và cam kết không tái phạm. Sau vụ việc, Công ty TNHH Bản tin Việt đã gửi thư xin lỗi chính thức đến Tạp chí Văn Hiến Việt Nam và điều chỉnh quy trình biên tập, đảm bảo xin phép và dẫn nguồn đầy đủ khi sử dụng nội dung từ các nguồn khác. 

Nguồn: Báo Thanh Niên

Khi Nào Được Sử Dụng Bài Viết Mà Không Cần Xin Phép?

Khi Nào Được Sử Dụng Bài Viết Mà Không Cần Xin Phép?

Trả lời vắn tắt: Bài viết đã công bố có thể được sử dụng không cần xin phép, không trả tiền bản quyền trong các trường hợp như nghiên cứu cá nhân, giảng dạy, hoặc trích dẫn hợp lý, miễn là không nhằm mục đích thương mạikhông gây thiệt hại cho tác giả.

Các trường hợp sử dụng bài viết đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền,được quy định tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2022) như sau: 

Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2022)

Điều 25. Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả.

1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứcủa tác phẩm bao gồm:

a) Tự sao chép một bản đểnghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;

b) Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;

c) Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng  này  có  thể  bao  gồm  việc  cung  cấp  trong  mạng  máy  tính  nội  bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;

d) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;

đ) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu; 

e)  Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích  thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo  quy  định của  pháp  luật  về  thư  viện,  lưu  trữ;  sao  chép  hợp  lý  một phần  tác  phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng  bản  sao  của  tác  phẩm  do  các  thư  viện  nói trên nắm  giữ,  trừ  trường  hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;

g) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệthuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổđộng không nhằm mục đích thương mại;

h) Chụp ảnh,  truyền  hình  tác  phẩm  mỹ  thuật,  kiến  trúc,  nhiếp ảnh,  mỹ  thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại;

i) Nhập  khẩu  bản  sao  tác  phẩm  của  người  khác  để sử dụng  cá  nhân,  không  nhằm mục đích thương mại;

k) Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các  hình  thức  truyền  thông  khác  tới  công  chúng  bài  giảng,  bài  phát  biểu,  bài  nói  khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;

l) Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm  mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;

m) Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường (sau đây gọi là người khuyết tật), người nuôi dưỡng,chăm sóc cho người khuyết  tật,  tổ chức đáp ứng điều  kiện  theo  quy  định  của  Chính  phủ sử dụng  tác  phẩm theo quy định tại Điều 25a của Luật này.

2. Việc sử dụng  tác  phẩm  quy  định  tại  khoản  1  Điều  này  không  được  mâu  thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. 

3.  Việc  sao  chép  quy  định  tại  khoản  1  Điều  này  không  áp  dụng đối  với  tác  phẩm kiến trúc, tác phẩm mỹ thuật, chương trình máy tính; việc làm tuyển tập, hợp tuyển các tác phẩm.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Pháp luật Việt Nam cho phép sử dụng bài viết đã công bố mà không cần xin phép hoặc trả tiền bản quyền trong một số trường hợp cụ thể, miễn là việc sử dụng không nhằm mục đích thương mại và không gây thiệt hại cho tác giả. Các trường hợp này bao gồm sử dụng cho nghiên cứu cá nhân, giảng dạy, trích dẫn hợp lý, hoặc phục vụ hoạt động công vụ. Ví dụ, một sinh viên có thể sao chép một bài báo để làm tài liệu học tập cá nhân, hoặc một giáo viên sử dụng một đoạn trích bài viết trong slide giảng dạy, miễn là không bán slide đó để kiếm lợi nhuận.

Tuy nhiên, việc sử dụng phải tuân thủ các giới hạn nghiêm ngặt. Chẳng hạn, trích dẫn hợp lý không được làm sai ý tác giả hoặc lấy quá nhiều nội dung đến mức ảnh hưởng đến giá trị thương mại của tác phẩm gốc. Tương tự, các thư viện có thể sao chép một phần tác phẩm để phục vụ nghiên cứu, nhưng phải đảm bảo số lượng bản sao giới hạn và không vượt quá số lượng hợp lý. Những trường hợp này nhằm cân bằng giữa quyền lợi của tác giả và nhu cầu tiếp cận tri thức của cộng đồng.

Tình huống giả định

Cô Trần Thị Lan, một giáo viên dạy văn tại Trường THPT Nguyễn Trãi, Hà Nội, sử dụng một đoạn trích từ bài báo “Văn học dân gian Việt Nam” của nhà nghiên cứu Phạm Văn Hùng trên báo Văn Hóa để làm tài liệu giảng dạy. Cô trích dẫn đúng nguồn và chỉ sử dụng một đoạn ngắn để minh họa trong slide bài giảng, không thu phí từ học sinh. Tuy nhiên, một học sinh chụp lại slide và đăng toàn bộ nội dung lên nhóm Facebook của lớp, không ghi nguồn. Phạm Văn Hùng phát hiện và gửi khiếu nại đến Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, cho rằng hành vi của học sinh vi phạm quyền tác giả.

Sở áp dụng Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ 2005, xác định rằng việc cô Lan sử dụng đoạn trích là hợp pháp vì phục vụ mục đích giảng dạy, không thương mại, và có dẫn nguồn. Tuy nhiên, hành vi của học sinh vi phạm vì đăng lại toàn bộ nội dung mà không xin phép, không thuộc trường hợp miễn trừ. Học sinh được yêu cầu gỡ bài đăng và xin lỗi công khai. 

(Tình huống trên đây là giả định, chỉ mang tính tham khảo)

Kết Luận

Quyền tác giả là công cụ quan trọng để bảo vệ sự sáng tạo trong thời đại số. Các bài viết văn học, báo chí, hoặc khoa học được bảo hộ nếu mang tính sáng tạo và không sao chép. Đăng bài viết của người khác lên mạng xã hội mà không xin phép có thể bị phạt từ 15-70 triệu đồng, tùy thuộc vào chủ thể vi phạm. Một số trường hợp, như sử dụng cho học tập cá nhân hoặc trích dẫn hợp lý, được phép mà không cần xin phép, miễn là không gây thiệt hại cho tác giả.

Như Quỳnh
Biên tập

Là một biên tập viên tận tâm và đam mê ngôn ngữ, Như Quỳnh luôn nỗ lực mang đến những nội dung chất lượng, chính xác và hấp dẫn cho độc giả. Với kinh nghiệm dày dặn trong lĩnh vực biên tập. Ngoài công...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá