Bị can, bị cáo chỉ bị xích chân khi thuộc diện đối tượng nguy hiểm, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc đã bị kết án tử hình và việc xích chân được xác định là cần thiết để bảo đảm an toàn trong quá trình áp giải theo kế hoạch đã phê duyệt.
Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự luôn phải tuân thủ chặt chẽ quy định pháp luật nhằm bảo đảm an toàn, trật tự và quyền con người. Trong đó, vấn đề xích chân bị can, bị cáo khi áp giải chỉ được thực hiện trong những trường hợp nhất định, gắn với mức độ nguy hiểm của hành vi và yêu cầu bảo đảm an ninh. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định rõ các điều kiện để áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng nhằm tránh việc áp dụng tùy tiện các biện pháp hạn chế quyền tự do thân thể.
1. Trường hợp nào bị can, bị cáo bị xích chân theo quy định pháp luật?

Điều 7 Quy trình ban hành kèm theo Quyết định 1502/2008/QĐ-BCA quy định như sau:
Quyết định 1502/2008/QĐ-BCA
Điều 7. Bắt, áp giải bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù
1. Bắt bị can, bị cáo, người có quyết định thi hành án phạt tù:
a) Đến địa điểm bắt bí mật, nhanh chóng, mời đại diện chính quyền địa phương nơi đối tượng cư trú hoặc đại diện cơ quan, tổ chức nơi đối tượng làm việc và người chứng kiến, triển khai các hoạt động cần thiết bảo đảm an toàn và hiệu quả của việc bắt;
b) Yêu cầu chủ nhà hoặc người có mặt tại địa điểm bắt cho gặp người cần bắt; tiếp cận đối tượng và kiểm tra, đối chiếu ảnh, giấy tờ tùy thân, xác định đúng là người có tên trong lệnh bắt thì tiến hành bắt;
c) Đọc lệnh hoặc quyết định bắt, giải thích lệnh hoặc quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt;
d) Lập biên bản về việc bắt;
e) Trường hợp đến địa điểm bắt, đối tượng không có mặt ở nơi cư trú nhưng có căn cứ xác định đối tượng đang trên đường đi hoặc ở một địa điểm khác thì người chỉ huy phải tổ chức ngay lực lượng đến bắt; nếu xét thấy chưa bảo đảm an toàn và hiệu quả, phải tổ chức bám sát theo dõi, đến địa điểm thuận lợi mời đối tượng vào cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất để tiến hành các thủ tục bắt như quy định tại điểm a, b, c, d của Khoản này.
2. Áp giải người bị bắt
a) Khám người, xác định đồ vật, tài sản người bị bắt mang theo, xử lý theo quy định của pháp luật đối với các đồ vật, tài sản đó; khóa tay người bị bắt và thực hiện việc áp giải;
b) Trường hợp áp giải đối tượng nguy hiểm hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, người bị kết án tử hình nếu xét thấy cần thiết thì xích chân để đảm bảo an toàn (việc xích chân phải được nêu trong kế hoạch);
c) Trước khi áp giải, người chỉ huy cuộc áp giải giải thích cho người bị áp giải về quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình bị áp giải theo quy định của pháp luật, giải đáp thắc mắc của người bị áp giải (nếu có);
d) Trong khi áp giải phải đảm bảo an toàn, vô hiệu hóa sự chống đối hoặc gây khó khăn cho việc áp giải, không để người bị áp giải ngồi sau lưng hoặc cạnh người điều khiển phương tiện, gần cửa lên xuống hoặc gần cửa sổ; không để vũ khí bên cạnh người bị áp giải; người bị áp giải ngồi ở giữa, hai cán bộ áp giải ngồi hai bên; cán bộ áp giải phải giám sát, quản lý chặt chẽ người bị áp giải, cảnh giác, chủ động kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra; không tùy tiện giải quyết các yêu cầu của người bị áp giải;
đ) Lập biên bản giao, nhận người bị áp giải với cơ quan tiếp nhận người bị áp giải theo mẫu quy định.
Việc xích chân chỉ được áp dụng trong phạm vi bảo đảm an toàn khi áp giải và không áp dụng với mọi bị can, bị cáo. Biện pháp này gắn trực tiếp với mức độ nguy hiểm của người bị áp giải, tính chất đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội hoặc trường hợp người đã bị tuyên án tử hình. Quyết định xích chân phải được cân nhắc trước, thể hiện cụ thể trong kế hoạch áp giải và chỉ nhằm ngăn ngừa nguy cơ chống đối, bỏ trốn hoặc gây nguy hiểm, không mang ý nghĩa trừng phạt hay xâm phạm danh dự của người bị áp giải.
Tình huống giả định:

- Nguyễn Văn Minh bị áp giải trong vụ án đặc biệt nghiêm trọng
Nguyễn Văn Minh bị khởi tố về tội giết người và đang bị tạm giam để phục vụ điều tra. Khi chuẩn bị áp giải từ trại tạm giam đến cơ quan tiến hành tố tụng, lực lượng chức năng đánh giá Nguyễn Văn Minh có nguy cơ gây mất an toàn do tính chất nghiêm trọng của vụ án. - Lực lượng áp giải lập kế hoạch xích chân để bảo đảm an toàn
Căn cứ mức độ nguy hiểm của bị can, người chỉ huy cuộc áp giải đã phê duyệt kế hoạch có nội dung xích chân Nguyễn Văn Minh trong suốt quá trình di chuyển nhằm phòng ngừa hành vi chống đối hoặc bỏ trốn. -
Cán bộ thực hiện áp giải đúng phạm vi cần thiết
Trong quá trình áp giải, cán bộ làm nhiệm vụ chỉ duy trì việc xích chân trong thời gian di chuyển và tháo bỏ khi bàn giao bị can cho cơ quan có thẩm quyền, bảo đảm đúng quy trình và không vượt quá yêu cầu an toàn.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
2. Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng có bị tạm giam không?

Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định như sau:
Điều 119. Tạm giam
1. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.
2. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp:
a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;
b) Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can;
c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn;
d) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội;
đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
3. Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.
4. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp:
a) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;
b) Tiếp tục phạm tội;
c) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này;
d) Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
5. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này có quyền ra lệnh, quyết định tạm giam. Lệnh tạm giam của những người được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
6. Cơ quan điều tra phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị tạm giam cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam làm việc, học tập biết.
Pháp luật không loại trừ hoàn toàn việc tạm giam đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà đặt ra các điều kiện cụ thể để xem xét áp dụng. Việc tạm giam phụ thuộc vào khung hình phạt của tội danh và các dấu hiệu cho thấy người đó có khả năng gây khó khăn cho hoạt động tố tụng hoặc đe dọa trật tự, an toàn xã hội. Trong trường hợp hình phạt tù trên 02 năm, tạm giam có thể được áp dụng khi xuất hiện các hành vi như bỏ trốn, tái phạm hoặc cản trở điều tra. Đối với tội ít nghiêm trọng có mức hình phạt đến 02 năm, tạm giam chỉ đặt ra khi người phạm tội tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội hoặc đã bỏ trốn và bị truy nã.
Tình huống giả định:

- Trần Thị Thu Hà bị khởi tố về tội ít nghiêm trọng
Trần Thị Thu Hà bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với giá trị không lớn, thuộc nhóm tội ít nghiêm. Ban đầu, cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú để phục vụ điều tra. - Cơ quan điều tra phát hiện hành vi cản trở hoạt động tố tụng
Trong quá trình giải quyết vụ án, Trần Thị Thu Hà nhiều lần liên hệ với người làm chứng nhằm tác động đến lời khai và có biểu hiện che giấu, tiêu hủy tài liệu liên quan đến vụ việc. Những hành vi này gây khó khăn trực tiếp cho việc thu thập chứng cứ. -
Quyết định áp dụng biện pháp tạm giam đối với Trần Thị Thu Hà
Trước nguy cơ cản trở hoạt động điều tra và không bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng trình tự, cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định tạm giam Trần Thị Thu Hà, dù hành vi phạm tội thuộc nhóm ít nghiêm trọng.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.)
3. Kết luận
Việc xích chân bị can, bị cáo chỉ được áp dụng trong những trường hợp thật sự cần thiết nhằm bảo đảm an toàn khi áp giải và phải được xác định rõ trong kế hoạch thực hiện. Đối với biện pháp tạm giam, pháp luật không loại trừ người phạm tội ít nghiêm trọng mà đặt ra các điều kiện cụ thể để xem xét áp dụng, dựa trên nguy cơ bỏ trốn, tái phạm hoặc cản trở hoạt động tố tụng.





