Vụ cướp xảy ra tại một tiệm vàng ở Đà Nẵng vào tối 26/8/2025, với giá trị tài sản bị chiếm đoạt lên đến hơn 800 triệu đồng, đã gây xôn xao dư luận không chỉ vì tính chất manh động mà còn bởi nghi phạm là một người nước ngoài. Hành vi phạm tội diễn ra ngay giữa trung tâm thành phố, có chủ đích, có chuẩn bị kỹ lưỡng và để lại nhiều câu hỏi về cách xử lý của pháp luật Việt Nam trong những trường hợp như vậy. Cùng Trợ Lý Luật phân tích những vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự đối với người nước ngoài và quyền lợi của các bên liên quan trong vụ án.
I. Tổng quan vụ án cướp tiệm vàng tại Đà Nẵng
1. Diễn biến chi tiết vụ cướp tại tiệm vàng PNJ Đà Nẵng
Nghi phạm cải trang thành tài xế công nghệ - Tối 26/8/2025 Một người đàn ông nước ngoài mặc đồng phục Grab, đội mũ bảo hiểm và bịt kín mặt xuất hiện tại cửa hàng PNJ, số 455 Núi Thành, phường Hòa Cường, TP Đà Nẵng. Việc cải trang này được cho là nhằm che giấu danh tính và tránh bị chú ý. |
Theo: Báo Thanh niên |
Theo: Tạp chí Điện tử Thương hiệu và Công luận |
Tối 26/8/2025 - Tấn công bảo vệ và đập phá tủ kính Nghi phạm sử dụng một thanh sắt tấn công bảo vệ đang làm nhiệm vụ tại cửa hàng, sau đó dùng búa đập phá tủ trưng bày để chiếm đoạt lượng lớn trang sức bằng vàng và kim cương. Toàn bộ hành vi được thực hiện nhanh chóng và có tính toán kỹ lưỡng. |
Tẩu thoát khỏi hiện trường bằng xe máy - Tối 26/8/2025 Sau khi lấy được tài sản, nghi phạm lập tức rời khỏi hiện trường bằng xe máy. Quá trình bỏ trốn diễn ra trong thời gian ngắn, trước khi lực lượng chức năng có mặt. |
Theo: Báo Lao động |
Theo: Báo Dân trí |
Rạng sáng 27/8/2025 - Công an vào cuộc điều tra, trích xuất camera Ngay trong đêm, Công an TP Đà Nẵng triển khai truy xét, trích xuất hình ảnh từ camera an ninh và rà soát khu vực nghi phạm có thể lẩn trốn. Tang vật vụ án được xác định trị giá gần 833 triệu đồng. |
Bắt giữ nghi phạm tại căn hộ thuê - Sáng 27/8/2025 West Dale James bị bắt khi đang lẩn trốn tại một căn hộ cho thuê ở phường An Hải, quận Sơn Trà. Cơ quan công an thu giữ toàn bộ tang vật và phương tiện gây án, đồng thời tạm giữ hình sự nghi phạm để điều tra. |
Theo: Báo Thanh niên |
2. Hành vi manh động và thủ đoạn gây án của nghi phạm
Qua những tình tiết được ghi nhận, có thể thấy nghi phạm đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi gây án. Việc ngụy trang bằng đồng phục Grab và che kín mặt là thủ đoạn nhằm tránh bị nhận diện, đồng thời dễ dàng hòa vào dòng người sau khi tẩu thoát. Ngoài ra, đối tượng còn mang theo hung khí để khống chế, sẵn sàng tấn công khi gặp cản trở.
3. Quá trình truy bắt và thu hồi tang vật
Ngay sau khi vụ cướp xảy ra, lực lượng công an TP Đà Nẵng đã khẩn trương vào cuộc, khoanh vùng truy xét từ các hình ảnh camera an ninh và lời khai nhân chứng. Chỉ trong chưa đầy một ngày, nghi phạm đã bị phát hiện khi đang lẩn trốn tại một căn hộ cho thuê ở phường An Hải, quận Sơn Trà.
Toàn bộ số trang sức bị cướp, cùng hung khí và phương tiện gây án, đều được cơ quan chức năng thu giữ. Việc truy bắt nhanh chóng, kịp thời không chỉ giúp bảo toàn tài sản cho tiệm vàng, mà còn thể hiện sự quyết liệt của cơ quan công an trong việc xử lý các vụ án hình sự nghiêm trọng.
II. Nguyên tắc áp dụng hình phạt cho người nước ngoài phạm tội
Căn cứ Điều 5 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017):
Điều 5. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
![]() |
Mọi hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam, dù do công dân Việt Nam hay người nước ngoài thực hiện, đều bị xử lý theo Bộ luật Hình sự 2015. |
Trường hợp ngoại lệ chỉ áp dụng cho người được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự. Khi đó, trách nhiệm hình sự sẽ được giải quyết theo điều ước quốc tế, tập quán quốc tế hoặc bằng con đường ngoại giao. Tuy nhiên, nghi phạm trong vụ án này không thuộc diện miễn trừ, nên sẽ bị xử lý trực tiếp theo pháp luật Việt Nam. |
![]() |
![]() |
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được áp dụng cho tất cả mọi người. Vì vậy, nghi phạm người nước ngoài trong vụ án cướp hơn 800 triệu đồng tại Đà Nẵng vẫn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam, với mức hình phạt tương ứng theo hành vi đã thực hiện. |
III. Khung hình phạt đối với hành vi cướp tài sản và cố ý gây thương tích
1. Tội “Cướp tài sản” theo Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015
Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định:
Điều 168. Tội cướp tài sản
1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Trong vụ án tại Đà Nẵng, nghi phạm đã tấn công bảo vệ bằng hung khí và đập phá tủ kính để chiếm đoạt trang sức, hành vi này rõ ràng có dấu hiệu của tội “Cướp tài sản”.
2. Khung hình phạt với giá trị chiếm đoạt trên 800 triệu đồng
Khoản 4 Điều 168 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
Điều 168. Tội cướp tài sản
...
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
...
Như vậy, với số tài sản chiếm đoạt gần 833 triệu đồng, nghi phạm có thể phải đối mặt với mức án cao nhất là tù chung thân.
3. Tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015
Ngoài hành vi cướp, nghi phạm còn tấn công bảo vệ bằng hung khí. Căn cứ quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015:
Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;
b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;
e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;
h) Có tổ chức;
i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;
m) Có tính chất côn đồ;
n) Tái phạm nguy hiểm;
o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.
4. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
5. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.
6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
7. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Do đó, nếu kết quả giám định thương tật xác định bảo vệ cửa hàng bị thương, cơ quan điều tra có thể xem xét thêm tội “Cố ý gây thương tích” đối với nghi phạm.
4. Khả năng xử lý đồng thời cả hai tội danh
Trong nhiều vụ án, khi một hành vi vừa thỏa mãn dấu hiệu của tội cướp tài sản, vừa gây ra thương tích cho người khác, cơ quan tiến hành tố tụng có thể xem xét trách nhiệm ở nhiều tội danh khác nhau. Trường hợp này, nghi phạm có khả năng bị truy tố cùng lúc về tội “Cướp tài sản” theo Điều 168 và tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015. Điều này đồng nghĩa với việc hình phạt tổng hợp sẽ rất nghiêm khắc.
IV. Việc xử lý số trang sức bị cướp
1. Quy định về vật chứng trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Theo Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
Điều 89. Vật chứng
Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội, vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Đối với vụ án này, số trang sức bằng vàng và kim cương bị chiếm đoạt chính là vật chứng, đồng thời cũng là đối tượng của hành vi phạm tội.
2. Hoàn trả tài sản cho tiệm vàng và chủ sở hữu hợp pháp
Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
Điều 90. Bảo quản vật chứng
1. Vật chứng phải được bảo quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn, hư hỏng. Việc bảo quản vật chứng được thực hiện như sau:
a) Vật chứng cần được niêm phong thì phải niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong được lập biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án. Việc niêm phong, mở niêm phong vật chứng được thực hiện theo quy định của Chính phủ;
b) Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, vũ khí quân dụng phải được giám định ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại Kho bạc Nhà nước hoặc cơ quan chuyên trách khác. Nếu vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ lưu dấu vết của tội phạm thì tiến hành niêm phong theo quy định tại điểm a khoản này; vật chứng là vi khuẩn nguy hại, bộ phận cơ thể người, mẫu mô, mẫu máu và các mẫu vật khác của cơ thể người được bảo quản tại cơ quan chuyên trách theo quy định của pháp luật;
c) Vật chứng không thể đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;
d) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có thẩm quyền tại Kho bạc Nhà nước để quản lý;
đ) Vật chứng đưa về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo quản thì cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
2. Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để mất mát, hư hỏng, phá hủy niêm phong, tiêu dùng, sử dụng trái phép, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại vật chứng của vụ án thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật.
Trường hợp thêm, bớt, sửa đổi, đánh tráo, hủy, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án thì phải chịu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của luật.
Ngoài ra, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 cũng quy định:
Điều 47. Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
1. Việc tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy được áp dụng đối với:
a) Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội;
b) Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội;
c) Vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.
2. Đối với vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp.
3. Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu.
Như vậy, vàng, bạc hay tiền bị kẻ phạm tội cướp, trộm từ tiệm vàng hoặc từ chủ sở hữu sẽ được hoàn trả lại sau khi đã giám định, niêm phong và hoàn tất thủ tục chứng minh trong hồ sơ vụ án. Việc này vừa đảm bảo quyền tài sản của người dân, vừa ngăn chặn tình trạng cơ quan giữ tài sản quá lâu không cần thiết.
3. Thủ tục nhận lại tài sản bị chiếm đoạt trong quá trình điều tra
Trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan điều tra, viện kiểm sát hoặc tòa án là những đơn vị có thẩm quyền xử lý vật chứng. Chủ sở hữu hợp pháp (trong trường hợp này là tiệm vàng PNJ) có thể nộp đơn đề nghị nhận lại tài sản. Sau khi cơ quan chức năng xác định việc trả lại tài sản không còn ảnh hưởng đến quá trình tố tụng, số trang sức bị cướp sẽ được hoàn trả.
Điều này không chỉ đảm bảo quyền lợi của tiệm vàng, mà còn thể hiện sự công bằng trong việc xử lý vật chứng của cơ quan tiến hành tố tụng.
V. Kết luận
Vụ cướp hơn 800 triệu đồng tại tiệm vàng PNJ ở Đà Nẵng là một vụ án hình sự nghiêm trọng với nhiều tình tiết manh động. Căn cứ Bộ luật Hình sự 2015, người nước ngoài phạm tội tại Việt Nam vẫn bị xử lý theo pháp luật Việt Nam, ngoại trừ các trường hợp được miễn trừ ngoại giao. Với hành vi dùng hung khí để cướp tài sản có giá trị đặc biệt lớn, nghi phạm có thể phải đối mặt mức án từ 18 đến 20 năm tù hoặc tù chung thân. Đồng thời, số trang sức bị chiếm đoạt được xem là vật chứng và sẽ được hoàn trả cho tiệm vàng sau khi không còn ảnh hưởng đến quá trình tố tụng.