Tinh giản biên chế lấy kinh phí từ đâu?

Tinh giản biên chế lấy kinh phí từ đâu?

Tinh giản biên chế không chỉ liên quan đến việc cắt giảm nhân sự mà còn gắn liền với cách tính lương và nguồn kinh phí chi trả đúng quy định.

Tinh giản biên chế là chính sách nhằm sắp xếp lại tổ chức và nhân sự trong các cơ quan, đơn vị nhà nước để hoạt động hiệu quả hơn. Trong quá trình thực hiện, một trong những vấn đề được quan tâm là kinh phí chi trả cho người thuộc diện tinh giản sẽ lấy từ đâu. Đồng thời, cách xác định tiền lương tại thời điểm tinh giản cũng là yếu tố quyết định mức trợ cấp mà người lao động được hưởng.

1. Kinh phí chi trả cho tinh giản biên chế được lấy từ nguồn nào?

Trả lời vắn tắt: Tùy vào loại đối tượng được tinh giản mà kinh phí chi trả có thể lấy từ ngân sách nhà nước, nguồn thu sự nghiệp, hoặc kinh phí thường xuyên của cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp.

Kinh phí chi trả cho tinh giản biên chế được lấy từ nguồn nào?

Căn cứ Điều 11 Nghị định 29/2023/NĐ-CP, quy định về kinh phí thực hiện tinh giản biên chế như sau:

Nghị định 29/2023/NĐ-CP

Điều 11. Kinh phí thực hiện tinh giản biên chế

1. Kinh phí giải quyết chính sách tinh giản biên chế đối với đối tượng quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 2 Nghị định này do ngân sách nhà nước cấp.

Riêng đối với đối tượng là viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên theo quy định của Chính phủ thì kinh phí giải quyết chính sách tinh giản biên chế được lấy từ nguồn thu hoạt động sự nghiệp của đơn vị.

Riêng người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động được áp dụng chế độ, chính sách như công chức theo quy định của Chính phủ thì kinh phí giải quyết chính sách tinh giản biên chế được lấy từ kinh phí thường xuyên của cơ quan, tổ chức.

2. Kinh phí giải quyết chính sách tinh giản biên chế đối với đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này được lấy từ kinh phí thường xuyên hoặc từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị.

3. Kinh phí giải quyết chính sách tinh giản biên chế đối với đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định này được lấy từ kinh phí thường xuyên của Hội bao gồm nguồn ngân sách nhà nước hỗ trợ chi thường xuyên, nguồn từ hội phí và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

4. Kinh phí giải quyết chính sách tinh giản biên chế đối với đối tượng quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 18 Nghị định này được lấy từ nguồn thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư của doanh nghiệp đó khi chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.

5. Kinh phí giải quyết chính sách tinh giản biên chế đối với đối tượng quy định khoản 4 Điều 18 Nghị định này được lấy từ kinh phí thường xuyên của Quỹ Tài chính nhà nước ngoài ngân sách.

Việc xác định nguồn kinh phí chi trả chế độ tinh giản biên chế không được áp dụng chung cho tất cả các nhóm đối tượng mà được chia rõ thành từng trường hợp, tùy theo cơ cấu tổ chức, nguồn tài chính và tính chất pháp lý của từng cơ quan, đơn vị. Mục tiêu của cách phân chia này là để đảm bảo trách nhiệm tài chính phù hợp với cơ chế hoạt động của từng tổ chức, đồng thời giảm áp lực cho ngân sách nhà nước khi có thể tự chủ chi trả.

Thứ nhất, với các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập chưa tự chủ, hoặc những người làm việc theo chế độ công chức, thì ngân sách nhà nước sẽ là bên chịu trách nhiệm chi trả. Đây là nhóm được hưởng ngân sách thường xuyên từ nhà nước nên việc ngân sách đảm nhận chi trả chế độ tinh giản là hợp lý, phù hợp với nguồn lực quản lý.

Thứ hai, đối với các đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên hoặc cả chi đầu tư, họ có khả năng tự chủ tài chính thì trách nhiệm chi trả cũng sẽ thuộc về đơn vị đó. Việc buộc các đơn vị này dùng nguồn thu sự nghiệp của mình để thanh toán chế độ tinh giản là một cách đảm bảo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm đi kèm quyền tự chủ, tránh tình trạng dựa dẫm vào ngân sách dù đã có nguồn thu ổn định.

Thứ ba, người lao động theo hợp đồng lao động nhưng được áp dụng chế độ, chính sách như công chức là trường hợp đặc biệt – không thuộc biên chế công chức chính thức nhưng vẫn đang làm công việc có tính chất tương tự. Vì vậy, thay vì lấy từ ngân sách nhà nước hay quỹ sự nghiệp, phần kinh phí tinh giản sẽ được trích từ nguồn kinh phí thường xuyên của cơ quan, tổ chức nơi người đó đang công tác, thể hiện rõ trách nhiệm chi trả thuộc về đơn vị trực tiếp quản lý.

Thứ tư, với các tổ chức chính trị – xã hội như hội đoàn thể, vốn có cơ cấu tài chính hỗn hợp (gồm hội phí, ngân sách hỗ trợ và các nguồn khác), thì việc cho phép chi trả từ kinh phí thường xuyên của hội là cách làm linh hoạt, phù hợp với tính chất nửa công – nửa tư của các tổ chức này.

Thứ năm, riêng đối với các doanh nghiệp nhà nước đang trong giai đoạn sắp xếp, cổ phần hóa, việc dùng nguồn thực hiện chính sách đối với lao động dôi dư là phù hợp vì đã có các chính sách riêng cho khối doanh nghiệp này từ trước. Điều đó cũng thể hiện nguyên tắc: doanh nghiệp phải tự lo cho chính nhân sự của mình khi tái cơ cấu, thay vì xin hỗ trợ từ nhà nước.

Cuối cùng, với các trường hợp đặc biệt được Thủ tướng Chính phủ quyết định, thường là những tình huống ngoài quy chuẩn thông thường, nguồn chi trả sẽ đến từ Quỹ Tài chính nhà nước ngoài ngân sách – một nguồn tài chính linh hoạt hơn, dùng cho các nhiệm vụ đặc thù và không thường xuyên. Như vậy, quy định về kinh phí tinh giản biên chế không chỉ là sự liệt kê về nguồn tiền, mà thể hiện rõ tư duy phân quyền – tự chủ – trách nhiệm tài chính trong quản lý công vụ và nhân sự.

Tình huống giả định

Bà Trần Thị Minh, sinh năm 1970, là viên chức phụ trách kế toán tại Trung tâm Dịch vụ kỹ thuật và Ứng dụng công nghệ TP. Biên Hòa, một đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo chi thường xuyên. Bà Minh đã công tác tại đây gần 26 năm. Những năm gần đây, do sức khỏe giảm sút, bà thường xuyên phải nghỉ dài ngày để điều trị bệnh thoái hóa cột sống. Trong quá trình rà soát tổ chức, trung tâm đưa ra phương án tinh giản biên chế và thông báo danh sách dự kiến, trong đó có tên bà Minh thuộc diện nghỉ hưu trước tuổi.

Ngay sau đó, bà Minh phản ứng gay gắt tại cuộc họp nội bộ, cho rằng việc đưa tên bà vào danh sách tinh giản là không công bằng, và nếu buộc nghỉ thì mọi khoản trợ cấp phải do ngân sách nhà nước chi trả. Một số đồng nghiệp cũng tỏ ra bức xúc, cho rằng đơn vị đang cố tình làm khó nhân sự lớn tuổi để tiết kiệm chi phí.

Trưởng phòng tổ chức – hành chính đã mời bà Minh lên làm việc riêng, đồng thời trình bày rõ quy định tại Điều 11 Nghị định 29/2023/NĐ-CP: do trung tâm là đơn vị tự đảm bảo chi thường xuyên, nên kinh phí chi trả chế độ tinh giản cho bà Minh không do ngân sách nhà nước cấp, mà phải lấy từ nguồn thu hoạt động sự nghiệp của đơn vị. Bà Minh ban đầu không đồng tình mà cứ khăng khăng muốn mọi khoản trợ cấp phải do ngân sách nhà nước chi trả, tuy nhiên, sau khi được giải thích kỹ về cơ chế tài chính tự chủ và trách nhiệm của từng loại hình đơn vị, bà mới hiểu rằng: tuy cùng là viên chức, nhưng đơn vị tự chủ thì sẽ phải tự lo chi phí tinh giản; còn những đơn vị chưa tự chủ hoặc các cơ quan nhà nước thì mới dùng ngân sách.

Cuối cùng, bà Minh đồng thuận ký vào biên bản tự nguyện tinh giản, hồ sơ của bà được hoàn tất và chuyển sang kho bạc để thực hiện chi trả các khoản: trợ cấp nghỉ hưu trước tuổi, hỗ trợ theo năm công tác có đóng BHXH và chế độ một lần. Toàn bộ chi phí được trích từ nguồn thu sự nghiệp của trung tâm, đúng theo quy định.

Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.

2. Tiền lương được tính như thế nào tại thời điểm tinh giản biên chế?

Trả lời vắn tắt: Tiền lương dùng để tính chế độ tinh giản là mức lương tháng liền kề trước thời điểm tinh giản, gồm lương theo ngạch, bậc, chức danh và các khoản phụ cấp, chênh lệch bảo lưu (nếu có).

Tiền lương được tính như thế nào tại thời điểm tinh giản biên chế?

Căn cứ Điều 10 Nghị định 29/2023/NĐ-CP, quy định về tiền lương để tính trợ cấp tinh giản như sau:

Nghị định 29/2023/NĐ-CP

Điều 10. Cách xác định thời gian và tiền lương để tính hưởng trợ cấp tinh giản biên chế
1. Tiền lương hiện hưởng là tiền lương tháng liền kề trước khi tinh giản biên chế. Tiền lương tháng được tính bao gồm: mức lương theo ngạch, bậc, chức vụ, chức danh, chức danh nghề nghiệp hoặc mức lương theo thỏa thuận của hợp đồng lao động hoặc mức lương của người quản lý công ty; các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề, tiền lương và mức chênh lệch bảo lưu (nếu có) theo quy định của pháp luật về tiền lương.

...

Một trong những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến mức trợ cấp tinh giản biên chế là tiền lương hiện hưởng tại thời điểm gần nhất – cụ thể là tháng liền kề ngay trước khi tinh giản. Quy định này được nêu tại Điều 10 Nghị định 29/2023/NĐ-CP, phản ánh nguyên tắc tính toán trên cơ sở mức thu nhập thực tế ngay trước khi chấm dứt công tác.

Khái niệm “tiền lương tháng” trong trường hợp này không chỉ bao gồm lương theo ngạch, bậc, chức danh mà còn bao gồm các khoản phụ cấp cố định như phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề… Đặc biệt, còn có thể bao gồm khoản chênh lệch bảo lưu (nếu có) – tức là phần chênh lệch thu nhập được giữ nguyên (không bị cắt giảm) trong một số trường hợp điều chuyển công tác, chuyển ngạch, hoặc sắp xếp lại tổ chức nhưng chưa điều chỉnh kịp hệ số lương. Đây là cơ chế nhằm đảm bảo người lao động không bị thiệt về thu nhập trong thời gian chuyển tiếp.

Việc sử dụng mức lương tháng liền kề trước tinh giản làm căn cứ mang tính đơn giản và minh bạch. Tuy nhiên, trong thực tế, thời điểm “liền kề” này rất dễ xảy ra thay đổi, nhất là nếu người lao động bị điều chuyển vị trí công tác, điều chỉnh phụ cấp, hoặc thậm chí nghỉ phép không lương ngay trong tháng đó. Những thay đổi tưởng chừng nhỏ này lại có thể làm thay đổi đáng kể tổng mức lương được ghi nhận, từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến khoản trợ cấp mà người lao động được nhận.

Về mặt quản lý, điều này đặt ra yêu cầu rõ ràng với cơ quan, tổ chức sử dụng lao động: mọi quyết định liên quan đến điều động, phân công lại công việc, hoặc điều chỉnh hệ số lương/phụ cấp trong thời gian liền kề trước tinh giản cần được thực hiện minh bạch và có cân nhắc kỹ lưỡng, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến hồ sơ hành chính mà còn tác động đến quyền lợi thực tế của người nghỉ việc. Nếu không được làm rõ ngay từ đầu, rất dễ phát sinh khiếu nại, hiểu nhầm hoặc tranh chấp về cách tính.

Từ góc độ chính sách, cách xác định tiền lương này là một phương án dung hòa giữa sự ổn định và tính thời điểm, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động nhưng vẫn tránh được các rủi ro gian lận từ việc điều chỉnh lương đột ngột để tăng trợ cấp trước khi nghỉ.

Tình huống giả định

Ông Lê Văn Trí, sinh năm 1968, là nhân viên kỹ thuật hạ tầng tại Ban Quản lý Dự án Đầu tư và Xây dựng huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng. Sau 31 năm công tác, đến đầu tháng 3/2025, ông Trí được đưa vào danh sách tinh giản theo diện nghỉ hưu trước tuổi.

Tại thời điểm tháng 2/2025 – tháng liền kề trước tinh giản – mức lương thực lĩnh của ông Trí là 9,620,000 đồng, gồm:

  • Lương ngạch kỹ sư bậc 4: 5,860,000 đồng

  • Phụ cấp chức vụ tổ trưởng: 1,500,000 đồng

  • Phụ cấp thâm niên nghề: 1,800,000 đồng

  • Phụ cấp trách nhiệm kiêm nhiệm dự án: 460,000 đồng

Tuy nhiên, ngay đầu tháng 2, ông Trí được điều chuyển về làm chuyên viên phụ trách kho lưu trữ – một vị trí hành chính không có phụ cấp tổ trưởng, không có công tác dự án. Do đó, mức lương trong tháng này giảm chỉ còn 7,260,000 đồng.

Khi nhận bảng tính trợ cấp từ Phòng tổ chức, ông Trí tá hỏa vì số tiền trợ cấp thấp hơn gần 30 triệu đồng so với tính toán ban đầu của ông (do mất các khoản phụ cấp). Ông lập tức khiếu nại và đề nghị áp dụng mức lương tháng 1/2025 – thời điểm ông vẫn đang giữ tổ trưởng kỹ thuật, lương cao hơn.

Tuy nhiên, cơ quan chức năng giải thích rõ: theo quy định tại Điều 10 Nghị định 29/2023/NĐ-CP, mức lương làm căn cứ là tiền lương của tháng liền kề ngay trước khi tinh giản, tức tháng 2/2025 – khi ông đã điều chuyển công tác. Việc không còn hưởng phụ cấp tổ trưởng và dự án là hợp pháp, có quyết định rõ ràng, nên không thể tính lại mức lương cũ.

Sau khi đối chiếu toàn bộ hồ sơ và xác nhận lại thời điểm chính thức tinh giản là ngày 01/3/2025, ông Trí buộc phải chấp nhận phương án tính theo lương tháng 2/2025. Dù không thật sự hài lòng, ông cũng rút ra một bài học quan trọng: mọi thay đổi về chức danh, hệ số lương, phụ cấp trước thời điểm tinh giản đều có thể làm thay đổi quyền lợi sau cùng – và cần được theo dõi chặt chẽ từ sớm.

Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.

Kết luận

Tinh giản biên chế là một chính sách phức tạp, không chỉ liên quan đến tổ chức bộ máy mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của từng cá nhân. Về nguồn chi trả, tùy vào loại hình đơn vị và cơ chế tài chính mà kinh phí có thể đến từ ngân sách nhà nước, nguồn thu sự nghiệp hoặc quỹ thường xuyên của cơ quan, tổ chức. Đồng thời, mức lương làm căn cứ tính trợ cấp được xác định theo tháng liền kề trước thời điểm tinh giản, bao gồm cả phụ cấp và khoản chênh lệch bảo lưu (nếu có), nên bất kỳ thay đổi nào trong giai đoạn này cũng có thể làm biến động đáng kể quyền lợi thực nhận.

Gia Nghi
Biên tập

Sinh viên khoa Chất lượng cao, chuyên ngành Dân sự - Thương mại - Quốc tế tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Mình luôn cố gắng học hỏi và trau dồi kiến thức để hiểu rõ hơn về pháp luật và cách á...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá