Trong bối cảnh thị trường lao động có nhiều biến động, đặc biệt là tình trạng tinh giản biên chế trong các cơ quan nhà nước hoặc doanh nghiệp cắt giảm nhân sự, không ít người lao động buộc phải cân nhắc nghỉ hưu sớm dù chưa đến tuổi. Việc nghỉ hưu trước thời điểm quy định sẽ tùy vào lý do và điều kiện cụ thể, người lao động có thể được hưởng trọn vẹn hoặc bị giảm một phần quyền lợi theo quy định pháp luật.
1. Trường hợp nghỉ hưu sớm vẫn được đảm bảo quyền lợi
Căn cứ vào Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, khoản 1 Điều 7 Nghị định 178/2024/NĐ-CP quy định cụ thể như sau
Điều 55. Điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động
1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 của Luật này khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 54 của Luật này nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, nam đủ 51 tuổi, nữ đủ 46 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên thì đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động. Sau đó mỗi năm tăng thêm một tuổi cho đến năm 2020 trở đi, nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 50 tuổi thì mới đủ điều kiện hưởng lương hưu khi suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên;b) Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
c) Bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành.
2. Người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật này khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên, bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên được hưởng lương hưu với mức thấp hơn so với người đủ điều kiện hưởng lương hưu quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều 54 của Luật này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi trở lên;b) Có đủ 15 năm trở lên làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành.
Điều 7. Chính sách đối với người nghỉ hưu trước tuổi
1. Đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định này nghỉ hưu trước tuổi, được hưởng các chế độ như sau:Được hưởng trợ cấp hưu trí một lần cho thời gian nghỉ sớm:
a) Đối với người nghỉ trong thời hạn 12 tháng đầu tiên kể từ khi có quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy của cấp có thẩm quyền:Trường hợp có tuổi đời từ đủ 05 năm trở xuống đến tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I và Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP thì được hưởng trợ cấp bằng 01 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với số tháng nghỉ sớm so với thời điểm nghỉ hưu.
Trường hợp có tuổi đời còn trên 05 năm đến đủ 10 năm đến tuổi nghỉ hưu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 135/2020/NĐ-CP thì được hưởng trợ cấp bằng 0,9 tháng tiền lương hiện hưởng nhân với 60 tháng.
b) Đối với người nghỉ từ tháng thứ 13 trở đi kể từ khi có quyết định sắp xếp tổ chức bộ máy của cấp có thẩm quyền thì được hưởng bằng 0,5 mức trợ cấp tại điểm a khoản 1 Điều này.
...
Trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật cho phép người lao động nghỉ trước tuổi quy định mà vẫn được hưởng trọn vẹn lương hưu, không bị trừ bất kỳ khoản nào. Cụ thể, nếu một người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên và đã đóng đủ 20 năm bảo hiểm xã hội thì có thể được nghỉ hưu sớm hơn từ 5 đến 10 năm tùy theo mức độ suy giảm. Đối với những ai suy giảm trên 81%, thời gian được nghỉ sớm có thể lên đến 10 năm. Ngoài ra, với những người làm việc trong cơ quan nhà nước và thuộc diện tinh giản biên chế – tức là bị cắt giảm theo chủ trương sắp xếp lại bộ máy – thì pháp luật cũng có chính sách hỗ trợ rõ ràng. Theo Nghị định 178/2024/NĐ-CP, sẽ được nhận một lần hết một khoản tiền hoặc theo các quy định khác của luật.
Tình huống giả định
Ông Lê Văn Tùng sinh năm 1972, là công chức công tác tại một cơ quan hành chính nhà nước thuộc quận Long Biên, Hà Nội, với thời gian đóng bảo hiểm xã hội liên tục hơn 28 năm. Đầu năm 2025, đơn vị nơi ông Tùng công tác thực hiện tinh giản biên chế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Căn cứ vào kế hoạch sắp xếp lại tổ chức bộ máy, ông Tùng thuộc đối tượng tinh giản theo Nghị định 29/2023/NĐ-CP và được xem xét nghỉ hưu trước tuổi theo chế độ ưu tiên.
Khi nghỉ hưu ở tuổi 53, ông Tùng vẫn đủ điều kiện hưởng lương hưu trọn vẹn 75% vì không bị trừ tỷ lệ phần trăm do nghỉ sớm. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị định 29/2023/NĐ-CP, ông còn được nhận trợ cấp 3 tháng lương cho 1 năm nghỉ hưu trước tuổi và trợ cấp 5 tháng lương cơ sở cho 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên. Cơ quan công tác của ông phối hợp với cơ quan bảo hiểm để hoàn tất thủ tục, chi trả đầy đủ cả lương hưu và trợ cấp một lần trước khi nghỉ.
Nhờ thuộc diện tinh giản biên chế có quyết định hợp lệ nên ông Tùng được đảm bảo đầy đủ quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo quy định pháp luật, không bị trừ tỷ lệ lương hưu và được hưởng chính sách hỗ trợ tài chính khi nghỉ hưu sớm.
(Đây là tình huống giả định mang tính chất minh họa)
2.Trường hợp nghỉ hưu sớm bị giảm quyền lợi
Căn cứ khoản 3 Điều 56 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định cụ thể như sau
Điều 56. Mức lương hưu hằng tháng
...
3. Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 55 của Luật này được tính như quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 2%.
Trường hợp tuổi nghỉ hưu có thời gian lẻ đến đủ 06 tháng thì mức giảm là 1%, từ trên 06 tháng thì không giảm tỷ lệ phần trăm do nghỉ hưu trước tuổi....
Trái với những trường hợp đặc biệt được pháp luật ưu tiên, người lao động nghỉ hưu sớm theo nguyện vọng cá nhân – ví dụ vì mất việc, công ty không còn phù hợp, hoặc tự muốn dừng công việc sớm – thì rất có thể sẽ bị giảm quyền lợi. Theo Luật Bảo hiểm xã hội, mỗi năm nghỉ hưu sớm so với độ tuổi quy định, người lao động sẽ bị trừ 2% mức lương hưu. Không chỉ giảm về lương, người lao động còn có thể bị gián đoạn quyền lợi nếu nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi để nhận lương hưu. Nếu không thuộc diện tinh giản biên chế hoặc suy giảm sức khỏe, người lao động gần như không được hỗ trợ thêm gì, ngoại trừ trợ cấp thất nghiệp – và chỉ khi đủ điều kiện theo Luật Việc làm.
Tình huống giả định
Bà Nguyễn Thị Thanh Hoa, sinh năm 1970, là nhân viên văn phòng tại một công ty cổ phần ở TP. Hồ Chí Minh, với tổng thời gian đóng bảo hiểm xã hội là 25 năm. Sau nhiều đợt tái cấu trúc nhân sự, đến đầu năm 2025, công ty bà Hoa không còn bố trí được công việc phù hợp và bà tự nguyện làm đơn xin nghỉ việc để chốt sổ bảo hiểm, đăng ký hưởng chế độ hưu trí trước tuổi.
Tại thời điểm nghỉ, bà Hoa mới 55 tuổi – tức nghỉ hưu trước 5 năm so với tuổi nghỉ hưu của nữ lao động làm việc trong điều kiện bình thường theo lộ trình Luật Bảo hiểm xã hội 2024. Vì không thuộc diện tinh giản biên chế, không suy giảm khả năng lao động, không làm việc nặng nhọc hay nguy hiểm, nên bà không được hưởng trợ cấp hỗ trợ nào thêm. Theo Điều 66 Luật Bảo hiểm xã hội 2024, mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi, tỷ lệ lương hưu bị trừ 2%. Tổng cộng, bà Hoa bị giảm 10% tỷ lệ hưởng lương hưu, chỉ còn 65% thay vì mức tối đa 75%.
Ngoài ra, do không thuộc diện nghỉ hưu theo quyết định cơ quan có thẩm quyền, bà không được nhận bất kỳ khoản trợ cấp hưu trí một lần hay hỗ trợ nào theo các chính sách chuyển đổi lao động. Điều này khiến mức lương hưu hàng tháng của bà thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng.
(Đây là tình huống giả định mang tính chất minh họa)
Kết luận
Người lao động nghỉ hưu trước tuổi không thuộc diện ưu tiên sẽ bị giảm tỷ lệ lương hưu theo quy định và không được hưởng các khoản trợ cấp hỗ trợ như các trường hợp đặc biệt. Bên cạnh đó, nếu thuộc các trường hợp như thuộc đối tinh giản biên chế hay các đối tượng thuộc diện ưu tiên được quy định trong luật BHXH thì vẫn được hưởng đúng các quyền lợi không bị cắt giảm.