Tài sản của vợ chồng trong hôn nhân được phân định thế nào sau ly hôn?

Tài sản của vợ chồng trong hôn nhân được phân định thế nào sau ly hôn?

Khi ly hôn, tài sản không chứng minh được là tài sản riêng sẽ bị xem là tài sản chung. Vợ chồng liên đới chịu trách nhiệm trả nợ chung nếu mục đích vay nợ để phục vụ nhu cầu của gia đình.

Trong quá trình chung sống vợ chồng, việc tạo lập tài sản và phát sinh nghĩa vụ tài chính là điều không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, khi ly hôn, việc xác định tài sản là của ai và ai phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ lại trở nên vô cùng phức tạp, nhất là khi không có căn cứ rõ ràng. Bài viết này sẽ giúp giải đáp những vấn đề trên dưới góc độ pháp luật Việt Nam.


Khi không có căn cứ chứng minh là tài sản riêng thì đó có được xem là tài sản chung không?

Khi không có căn cứ chứng minh là tài sản riêng thì đó có được xem là tài sản chung không?

Trả lời vắn tắt: Tài sản sẽ bị xemtài sản chung nếu không có căn cứ xác định rõ là tài sản riêng của vợ hoặc chồng.

Trong Khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:

Luật Hôn nhân và gia đình 2014

Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

...........

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Trong hôn nhân, việc phân định tài sản giữa vợ và chồng mang tính chất quan trọng khi mối quan hệ chấm dứt bằng ly hôn. Pháp luật Việt Nam quy định rằng tất cả tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung, trừ khi có đủ căn cứ chứng minh là tài sản riêng.

Khoản 3 Điều 33 đã khẳng định nguyên tắc xử lý tài sản trong trường hợp tranh chấp mà không chứng minh được quyền sở hữu riêng: tài sản đó sẽ được coi là tài sản chung. Điều này phản ánh nguyên tắc “ai khẳng định thì phải chứng minh”, đồng thời thể hiện sự bảo vệ quyền lợi cân bằng giữa hai bên vợ chồng.

Pháp luật áp dụng nguyên tắc này để ngăn chặn việc một bên cố tình né tránh nghĩa vụ tài chính hoặc chiếm hữu toàn bộ tài sản. Nó cũng tạo động lực cho việc xác lập rõ ràng quyền sở hữu trong thời kỳ hôn nhân thông qua văn bản xác nhận, thỏa thuận tài sản hoặc đăng ký sở hữu.

Ví dụ thực tế

Năm 1985, bà Nguyễn Thị Kim D và ông Trương Thành L bắt đầu sống chung như vợ chồng, chính thức đăng ký kết hôn vào năm 2007. Trong thời kỳ hôn nhân, hai người cùng tạo lập nhiều tài sản, trong đó có quyền sử dụng đất và căn nhà tại thửa số 34, tọa lạc ở TP. Tân An, tỉnh Long An. Mặc dù giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông L, nhưng bà D cho rằng đây là tài sản mẹ chồng bà đã tặng cho cả hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Bà yêu cầu chia đôi tài sản này khi ly hôn.

Tuy nhiên, phía ông L lại cho rằng nhà đất thửa 34 là tài sản mẹ ông tặng riêng để làm nhà thờ, là hương hỏa tổ tiên, và do đó không thể xem là tài sản chung. Ông L cũng cung cấp lời khai từ các anh, chị em trong gia đình xác nhận việc mẹ để lại phần đất đó riêng cho ông làm nơi thờ cúng và không được bán.

Dù cả hai bên đều có lý lẽ riêng, nhưng quá trình tố tụng cho thấy:

  • Giấy tặng cho không có, hoặc không chứng minh được rõ ràng phần đất là tặng riêng hay tặng chung.

  • Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên riêng ông L.

  • Nhưng trong quá trình sử dụng, bà D có ký tên vào nhiều hợp đồng chuyển nhượng liên quan đến thửa đất này.

  • Tòa án xác định tài sản có dấu hiệu là tài sản riêng, tuy nhiên xét đến công sức đóng góp của bà D trong quá trình hôn nhân (chăm sóc mẹ chồng, quản lý tài sản, có chữ ký trong các giao dịch liên quan…), nên trích cho bà D 30% giá trị tài sản tại thửa đất 34.

Cuối cùng, Tòa án tuyên thửa đất số 34 là tài sản riêng của ông L, nhưng buộc ông phải thanh toán cho bà D 1,23 tỷ đồng tương đương với phần công sức đóng góp vào khối tài sản đó.

Nguồn: Công bố Bản án Tòa án nhân dân Tối cao.


Vợ chồng có nghĩa vụ như thế nào khi sử dụng tài sản chung?

Vợ chồng có nghĩa vụ như thế nào khi sử dụng tài sản chung?

Trả lời vắn tắt: Vợ chồng có trách nhiệm cùng nhau sử dụng tài sản chunglợi ích gia đìnhchịu trách nhiệm với nghĩa vụ phát sinh từ tài sản đó.

Nghĩa vụ của vợ chồng trong việc sử dụng tài sản chung được quy định trong Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

Luật Hôn nhân và gia đình 2014

Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng

Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:

1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;

3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Tài sản chung của vợ chồng không chỉ là khối tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, mà còn là nền tảng vật chất để duy trì cuộc sống gia đình. Do đó, việc sử dụng, định đoạt và phát sinh nghĩa vụ từ tài sản chung luôn được đặt trong khuôn khổ trách nhiệm liên đới của cả hai người.

Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định rằng bất kỳ nghĩa vụ nào phát sinh từ việc sử dụng tài sản chung – ví dụ: vay tiền để sửa nhà, đầu tư kinh doanh có sử dụng tài sản chung, cho thuê tài sản để thu lợi nhuận… – đều là nghĩa vụ mà cả hai vợ chồng phải cùng gánh chịu. Đây là nguyên tắc đảm bảo tính bình đẳng và công bằng giữa hai bên, nhất là khi tài sản không đứng tên chung mà chỉ đứng tên một người.

Tình huống giả định

Chị Ngọc và anh Hải kết hôn năm 2012, sống tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Sau nhiều năm tích cóp và vay mượn, đến năm 2018, hai vợ chồng mua được một căn nhà trị giá hơn 4 tỷ đồng. Căn nhà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cả hai vợ chồng. Trong quá trình chung sống, anh Hải điều hành một công ty nhỏ về vật liệu xây dựng, còn chị Ngọc là nhân viên kế toán cho một doanh nghiệp tư nhân.

Năm 2022, anh Hải nghe bạn bè rủ đầu tư vào một dự án bất động sản nghỉ dưỡng “sắp được phê duyệt” tại vùng ven TP.HCM. Tin tưởng vào cơ hội sinh lời, anh đề xuất thế chấp căn nhà để vay 2,5 tỷ đồng đầu tư. Ban đầu, chị Ngọc tỏ ý không đồng tình vì dự án chưa rõ pháp lý, nhưng sau khi bị thuyết phục rằng sẽ có lợi ích lớn cho cả gia đình và được cam kết hoàn toàn chịu trách nhiệm nếu có rủi ro, chị Ngọc đã đồng ý ký vào hợp đồng thế chấp với ngân hàng.

Không may, đến giữa năm 2023, dự án đổ bể do không được cấp phép xây dựng. Anh Hải không thể thu hồi vốn, ngân hàng lập tức ra thông báo thu giữ tài sản đảm bảo để phát mại. Chị Ngọc hoảng hốt, cho rằng khoản nợ và rủi ro là do chồng tự ý quyết định, chị không phải liên đới chịu trách nhiệm vì không hưởng lợi gì từ dự án này.

Tuy nhiên, khi sự việc được đưa ra pháp lý, phía ngân hàng dẫn ra quy định tại khoản 3 Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Vì căn nhà là tài sản chung của vợ chồng và hợp đồng vay thế chấp được ký bởi cả hai người, nên nghĩa vụ trả nợ là nghĩa vụ chung. Không quan trọng ai là người trực tiếp sử dụng tiền hay đưa ra quyết định đầu tư, miễn là khoản vay có sự tham gia của cả hai, hoặc nhằm mục đích phục vụ gia đình thì đều buộc cả hai người cùng phải gánh chịu.

Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy địnhtrong các trường hợp nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản chung như thế chấp để vay tiền, cả hai vợ chồng đều phải chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ đó, kể cả khi một bên không trực tiếp sử dụng hoặc hưởng lợi.

Cuối cùng, ngân hàng vẫn tiến hành phát mãi căn nhà để thu hồi nợ. Chị Ngọc đành chấp nhận kết quả dù không trực tiếp quản lý khoản tiền vay.

Tình huống trên chỉ là tình huống giả định , mang tính chất tham khảo.


Chồng vay nợ riêng mà vợ không biết thì khi ly hôn, vợ có cần phải trả nợ đó không?

Chồng vay nợ riêng mà vợ không biết thì khi ly hôn vợ có cần phải trả nợ đó không?

Trả lời vắn tắt: Vợ không phải trả nợ nếu khoản vay đó là nợ riêng của chồngkhông nhằm phục vụ nhu cầu chung của gia đình.

Tại Khoản 3 Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

Luật Hôn nhân và gia đình 2014

Điều 45. Nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng

...........

3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình.

Không phải mọi khoản nợ phát sinh trong thời kỳ hôn nhân đều là nợ chung. Luật phân định rất rõ giữa nghĩa vụ tài sản chung và nghĩa vụ tài sản riêng. Nếu một bên vay tiền nhưng không vì mục đích gia đình – chẳng hạn tiêu xài cá nhân, đầu tư riêng không có sự thỏa thuận – thì đó là nghĩa vụ riêng và người còn lại không phải chịu trách nhiệm liên đới.

Điều quan trọng là xác định khoản nợ đó có phục vụ cho gia đình hay không, có sự đồng thuận hay không, hoặc có hình thức ủy quyền hay đại diện hợp pháp nào không. Nếu không thỏa những điều kiện đó, nghĩa vụ trả nợ thuộc về người vay.

Ví dụ thực tế

Ông Đoàn Văn Q và bà Nguyễn Thị P kết hôn vào năm 2017, sinh sống tại huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Trong thời kỳ hôn nhân, hai người cùng vay nhiều khoản tiền phục vụ sinh hoạt và đầu tư. Đến năm 2022, họ ly thân, rồi tiến hành thủ tục ly hôn vào năm 2023.

Một trong những vấn đề nổi bật tại phiên tòa là tranh chấp trách nhiệm trả nợ đối với các khoản vay phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Bà P cho rằng hầu hết các khoản nợ đều là nợ chung, và ông Q phải cùng gánh trách nhiệm trả nợ. Tuy nhiên, ông Q phản đối nhiều khoản, cho rằng đó là nợ riêng của vợ và ông không biết, không ký kết, không hưởng lợi.

Tòa án đã tiến hành phân loại rõ ràng giữa nợ chungnợ riêng như sau:

  • Các khoản nợ có chữ ký của cả hai vợ chồng, phát sinh trong thời kỳ hôn nhân, hoặc có mục đích chung phục vụ đời sống gia đình như: vay ngân hàng để sửa nhà, vay quỹ cựu chiến binh để chi tiêu sinh hoạt… thì được xem là nợ chung. Hai vợ chồng phải cùng chịu trách nhiệm trả nợ (ví dụ: khoản vay 400 triệu từ Ngân hàng Nông nghiệp và khoản vay 50 triệu từ Ngân hàng Chính sách xã hội – có giấy ủy quyền của chồng).

  • Các khoản nợ chỉ do một bên vợ hoặc chồng vay, không có chữ ký của người kia, không chứng minh được là phục vụ mục đích chung thì được xác định là nợ riêng. Cụ thể, khoản vay 40 triệu đồng mà bà P tự đứng tên vay ngày 22/11/2022 từ Ngân hàng Chính sách xã hội sau khi vợ chồng đã ly thân, khoản vay 50 triệu đồng từ người quen không có giấy tờ xác nhận của ông Q, đều được xác định là nợ riêng của bà P.

Tòa viện dẫn quy định tại khoản 3 Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình.” Do không chứng minh được mục đích sử dụng khoản vay phục vụ nhu cầu chung, và vì thực hiện sau khi đã ly thân, nên các khoản nợ này được xem là nghĩa vụ tài sản riêng, bà P phải tự chịu trách nhiệm trả.

Kết quả: Tòa tuyên bà P phải tự trả hơn 100 triệu đồng cho các khoản vay riêng mà không có sự đồng thuận hoặc tham gia của ông Q. Ngược lại, ông Q chỉ chịu trả các khoản được xác định là nợ chung có đủ căn cứ pháp lý.

Nguồn: Bản án số 56/2023/HNGĐ-ST, Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.


Kết luận

Việc không phân định được tài sản trong hôn nhân sẽ dẫn đến nhiều rủi ro khi ly hôn, đặc biệt là trong phân chia tài sản và nghĩa vụ tài chính. Nếu không chứng minh được tài sản là riêng, tài sản đó sẽ bị coi là tài sản chung. Vợ chồng sử dụng tài sản chung thì phải cùng chịu trách nhiệm về những nghĩa vụ liên quan. Trong khi đó, nếu một bên tự vay nợ mà không vì mục đích gia đình, bên còn lại sẽ không phải gánh trách nhiệm tài chính đó.

Như Quỳnh
Biên tập

Là một biên tập viên tận tâm và đam mê ngôn ngữ, Như Quỳnh luôn nỗ lực mang đến những nội dung chất lượng, chính xác và hấp dẫn cho độc giả. Với kinh nghiệm dày dặn trong lĩnh vực biên tập. Ngoài công...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá