Sinh con trước khi đăng ký kết hôn thì có được công nhận là con chung không?

Sinh con trước khi đăng ký kết hôn thì có được công nhận là con chung không?

Sinh con trước khi kết hôn vẫn được công nhận là con chung nếu cha mẹ thừa nhận. Khi đăng ký khai sinh cho con, trong trường hợp sinh con trước kết hôn không cần xét nghiệm ADN nếu có văn bản thừa nhận.

Trong đời sống thực tế, có nhiều cặp đôi sinh con trước khi đăng ký kết hôn. Từ đó nảy sinh những lo ngại pháp lý: đứa trẻ sinh ra có được xem là con chung không? Việc khai sinh có cần xét nghiệm ADN hay phải thực hiện thủ tục nhận cha, mẹ cho con? Bài viết này sẽ làm rõ từng tình huống pháp lý xoay quanh vấn đề xác định con chung – con riêng trong các trường hợp sinh con trước hôn nhân.

Con sinh trước khi đăng ký kết hôn có được coi là con chung không?

Con sinh trước khi đăng ký kết hôn có được coi là con chung không?

Trả lời vắn tắt: Có. Nếu cả cha và mẹ đều thừa nhận thì con sinh trước khi đăng ký kết hôn vẫn được coi là con chung.

Nguyên tắc xác định cha, mẹ cho con quy định tại điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 như sau:

Luật Hôn nhân và gia đình 2014

Điều 88. Xác định cha, mẹ

1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.

Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.

Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.

Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định khá linh hoạt trong việc xác định con chung của vợ chồng, đặc biệt trong các trường hợp con sinh ra trước khi đăng ký kết hôn. Theo Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chỉ cần hai bên cha mẹ thừa nhận thì dù đứa trẻ được sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn, đứa trẻ đó vẫn được coi là con chung của vợ chồng.

Từ góc độ pháp lý, việc "thừa nhận" ở đây không cần hình thức văn bản phức tạp mà có thể thể hiện thông qua hành vi, lời nói, hoặc kê khai trong giấy tờ hộ tịch (như giấy khai sinh).

Tuy nhiên, trong trường hợp nếu một trong hai người không thừa nhận thì bên còn lại phải cung cấp chứng cứ – và khi đó Tòa án mới có thẩm quyền xác định con chung hay không.

Ví dụ thực tế

Bà Nguyễn Thị T và ông Đặng Ngọc Đ kết hôn từ năm 2015 và có 3 người con chung. Tuy nhiên, hai người đã sống ly thân từ năm 2018. Trong thời gian ly thân nhưng chưa ly hôn chính thức, bà T phát sinh tình cảm với ông Trương Quang L. Kết quả là vào ngày 06/9/2022, bà T sinh một bé trai đặt tên là Trương Nguyễn Gia P.

Do vẫn còn trong tình trạng hôn nhân hợp pháp với ông Đ, nên bà T gặp vướng mắc khi làm thủ tục khai sinh cho bé Gia P. Cơ quan hộ tịch không thể ghi tên ông L là cha vì về mặt pháp lý, bé được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân với ông Đ. Để giải quyết, bà T khởi kiện ra Tòa án yêu cầu xác định ông L là cha ruột của bé Gia P.

Tại phiên tòa, bà T xuất trình kết quả xét nghiệm ADN với tỷ lệ chính xác 99,99999998%, chứng minh quan hệ cha – con giữa ông L và bé Gia P. Bản thân ông L cũng đồng thuận với yêu cầu khởi kiện. Phía gia đình ông Đ – người chồng cũ của bà T – không có tranh chấp, đồng thời xác nhận ông Đ đã ly thân với bà T nhiều năm trước khi bà sinh bé Gia P và ông Đ cũng đã qua đời trước thời điểm xét xử.

Căn cứ vào các chứng cứ và lời khai, Tòa án áp dụng Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để xác định. Tòa cho rằng, dù về mặt pháp lý bé Gia P sinh trong thời kỳ hôn nhân với ông Đ, nhưng thực tế bà T và ông Đ đã không còn sống chung, không có quan hệ vợ chồng, ông Đ cũng không phản đối hay khiếu nại. Vì vậy, Tòa chấp nhận yêu cầu của bà T, công nhận ông Trương Quang L là cha ruột của cháu Trương Nguyễn Gia P.

Nguồn: Bản án số 14/2025/HNGĐ-ST, TAND huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông


Sinh con trước khi đăng ký kết hôn có cần xét nghiệm ADN khi làm giấy khai sinh không?

Sinh con trước khi đăng ký kết hôn có cần xét nghiệm ADN khi làm giấy khai sinh không?

Trả lời vắn tắt: Không. Nếu cha mẹ có văn bản thừa nhận là con chung thì không cần xét nghiệm ADN.

Dựa trên quy định tại khoản 3 Điều 16 Thông tư 04/2020/TT-BTP như sau:

Thông tư 04/2020/TT-BTP

Điều 16. Đăng ký nhận cha, mẹ, con, bổ sung hộ tịch trong một số trường hợp đặc biệt

...........

3. Trường hợp con do người vợ sinh ra trước thời điểm đăng ký kết hôn, chưa được đăng ký khai sinh mà khi đăng ký khai sinh, vợ chồng có văn bản thừa nhận là con chung thì thông tin về người cha được ghi ngay vào giấy khai sinh của người con mà không phải làm thủ tục đăng ký nhận cha, con.

...........

Nếu người cha muốn ghi tên mình vào giấy khai sinh của con được sinh ra trước hôn nhân thì chỉ cần có văn bản thừa nhận là con chung giữa hai vợ chồng. Trường hợp này không bắt buộc phải thực hiện thủ tục đăng ký nhận cha, con – vốn là thủ tục thường yêu cầu xét nghiệm ADN.

Việc “văn bản thừa nhận con chung” có thể được lập trực tiếp tại UBND cấp xã khi đăng ký khai sinh, hoặc thông qua tờ khai khai sinh kèm theo ký xác nhận của cả cha và mẹ. Điều này giúp đơn giản hóa thủ tục, tạo thuận lợi cho người dân mà vẫn đảm bảo nguyên tắc trung thực, tự nguyện khi xác lập quan hệ pháp lý cha – con.

Tuy nhiên, nếu có tranh chấp (ví dụ: người cha không đồng ý, hoặc bên thứ ba khiếu nại), cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu giám định ADN hoặc giải quyết tại Tòa án.

Tình huống giả định

Chị Trúc (27 tuổi) và anh Tuấn (30 tuổi) là một cặp đôi sống tại xã Bình Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Họ yêu nhau từ thời đại học và quyết định sống chung từ năm 2021, dù chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn do cả hai đều muốn ổn định công việc trước. Trong thời gian chung sống, họ có một bé trai – bé Hạo Nhiên – chào đời vào tháng 4/2022 tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh An Giang.

Do bận rộn công việc, cộng thêm suy nghĩ chủ quan rằng chỉ cần “sổ tiêm chủng là đủ”, anh chị đã không đi làm giấy khai sinh cho con ngay sau khi sinh. Mãi đến tháng 7/2023, khi bé sắp vào nhà trẻ và cần có giấy khai sinh để làm hồ sơ nhập học, họ mới đến UBND xã Bình Hòa để đăng ký khai sinh cho con.

Tại đây, cán bộ hộ tịch kiểm tra giấy tờ và phát hiện hai người vẫn chưa đăng ký kết hôn. Anh Tuấn lo lắng hỏi rằng liệu anh có thể được ghi tên là cha trên giấy khai sinh hay không, và có cần phải đi xét nghiệm ADN hay làm thủ tục nhận con không.

Tuy nhiên, sau khi kiểm tra kỹ, cán bộ tư pháp hộ tịch giải thích: theo khoản 3 Điều 16 Thông tư 04/2020/TT-BTP, trong trường hợp con sinh trước khi đăng ký kết hôn, chỉ cần cha mẹ có văn bản thừa nhận là con chung, thì người cha sẽ được ghi ngay vào giấy khai sinh mà không cần làm thủ tục nhận cha, con cũng như không cần giám định ADN.

Ngay tại UBND xã, anh Tuấn và chị Trúc được hướng dẫn điền mẫu xác nhận con chung và ký tên trước sự chứng kiến của cán bộ hộ tịch. Sau đó, họ nộp thêm giấy chứng sinh và CMND/CCCD, sổ hộ khẩu của cả hai người. Hồ sơ được tiếp nhận nhanh chóng và cán bộ hẹn 3 ngày sau đến lấy giấy khai sinh chính thức cho bé.

Việc bé Hạo Nhiên được ghi tên cả cha và mẹ vào giấy khai sinh không chỉ giúp hồ sơ nhập học thuận lợi mà còn tạo sự an tâm cho anh chị về mặt pháp lý – đặc biệt khi họ chuẩn bị làm thủ tục đăng ký kết hôn chính thức trong năm đó.

Tình huống trên chỉ là tình huống giả định, mang tính chất tham khảo.


Kết luận

Việc sinh con trước khi đăng ký kết hôn không làm mất đi quyền được công nhận là con chung nếu cha mẹ cùng thừa nhận. Đồng thời, trong trường hợp làm khai sinh cho con, vợ chồng chỉ cần cùng ký văn bản thừa nhận là con chung thì sẽ không cần thực hiện xét nghiệm ADN hay thủ tục nhận cha con. Quy định pháp luật đã có sự linh hoạt và nhân văn, giúp bảo vệ quyền lợi của trẻ em và tạo điều kiện thuận lợi cho cha mẹ hợp thức hóa quan hệ pháp lý với con.

Như Quỳnh
Biên tập

Là một biên tập viên tận tâm và đam mê ngôn ngữ, Như Quỳnh luôn nỗ lực mang đến những nội dung chất lượng, chính xác và hấp dẫn cho độc giả. Với kinh nghiệm dày dặn trong lĩnh vực biên tập. Ngoài công...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá