Phân tích yếu tố hai quốc tịch trong vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng

Phân tích yếu tố hai quốc tịch trong vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng

Phân tích yếu tố hai quốc tịch trong vụ án bà Nguyễn Phương Hằng dưới góc nhìn pháp lý, làm rõ cách pháp luật Việt Nam xử lý công dân mang hai quốc tịch khi phạm tội hình sự trong nước.

Vụ án của bà Nguyễn Phương Hằng không chỉ thu hút sự chú ý bởi tính chất pháp lý và truyền thông, mà còn bởi tình tiết bà là công dân mang hai quốc tịch Việt Nam và Cộng hòa Cyprus. Khi một công dân mang hai quốc tịch bị xử lý hình sự tại Việt Nam, yếu tố quốc tịch thứ hai thường trở thành một điểm đáng chú ý trong quá trình tố tụng. Bài viết này của Trợ lý luật sẽ phân tích yếu tố hai quốc tịch trong vụ án bà Nguyễn Phương Hằng dưới góc độ pháp lý hiện hành của Việt Nam, qua đó làm rõ cách pháp luật áp dụng đối với công dân mang hai quốc tịch trong các vụ án hình sự.

I. Giới thiệu chung

1. Tóm tắt vụ án bà Nguyễn Phương Hằng

Khởi đầu vụ việc - Tháng 3/2021

Bà Nguyễn Phương Hằng bắt đầu thu hút sự chú ý khi công khai tố cáo ông Võ Hoàng Yên trên mạng xã hội với cáo buộc lừa đảo hàng chục tỷ đồng. Vụ việc tạo nên dư luận lớn, nhưng ngày 3/12/2021, Công an TP.HCM xác định không đủ căn cứ khởi tố ông Yên.

Khởi đầu vụ việc bà Nguyễn Phương Hằng - Tháng 3/2021

Theo: Báo Lao Động

Từ tháng 5 đến cuối năm 2021 - Bà Hằng Livestream liên tục, nội dung gây tranh cãi

Theo: Báo Thanh Niên

Từ tháng 5 đến cuối năm 2021 - Livestream liên tục, nội dung gây tranh cãi

Bà Hằng tổ chức nhiều buổi livestream trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, YouTube, TikTok. Nội dung chủ yếu là chỉ trích và cáo buộc nhiều cá nhân nổi tiếng như nghệ sĩ Hoài Linh, ca sĩ Thủy Tiên, Đàm Vĩnh Hưng, nhà báo Hàn Ni, nhà báo Đức Hiển... gây ra tranh luận trái chiều trong dư luận.

Sự kiện đua chó đặt tên theo tên người - 19/3/2022

Tại khu du lịch Đại Nam, bà Hằng cùng ông Huỳnh Uy Dũng tổ chức một sự kiện có màn đua chó, đua ngựa. Một số con vật được đặt tên trùng với tên các cá nhân mà bà từng công khai chỉ trích. Sự kiện gây phản ứng dữ dội từ truyền thông và dư luận.

Sự kiện đua chó đặt tên theo tên người - 19/3/2022

Tháng 3/2022 - Bà Hằng bị khởi tố và tạm giam

Theo: Báo Chính Phủ

Tháng 3/2022 - Bị khởi tố và tạm giam

Cơ quan CSĐT Công an TP.HCM khởi tố và bắt tạm giam bà Nguyễn Phương Hằng về hành vi “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, theo Điều 331 Bộ luật Hình sự 2015.

Quá trình điều tra kéo dài, nhiều lần trả hồ sơ - Từ tháng 2022 đến giữa 2023

Viện Kiểm sát trả hồ sơ nhiều lần để điều tra bổ sung, làm rõ vai trò các đồng phạm và những người xuất hiện trong các buổi livestream. Trong quá trình này, cơ quan điều tra xác định bà Hằng mang hai quốc tịch Việt Nam và Cộng hòa Cyprus.

Quá trình điều tra kéo dài, nhiều lần trả hồ sơ

Theo: Báo Thanh Niên

toa-tra-ho-so-vtv.webp

Theo: VTV

31/5/2023 - Tòa trả hồ sơ lần thứ tư

Tòa án Nhân dân TP.HCM tiếp tục yêu cầu điều tra bổ sung về vai trò của ông Huỳnh Uy Dũng và những người liên quan, do chưa làm rõ toàn bộ tình tiết vụ án.

Tuyên án sơ thẩm - Tháng 9/2023

Tòa án Nhân dân TP.HCM tuyên bà Nguyễn Phương Hằng 3 năm tù. Các đồng phạm như tiến sĩ luật Đặng Anh Quân và 3 người khác cũng bị tuyên án từ 18 đến 30 tháng tù.

Tuyên án sơ thẩm - Tháng 9/2023

Theo: Báo Thanh Niên

2. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với người mang hai quốc tịch

Khi làm rõ lý lịch tư pháp của bà Nguyễn Phương Hằng, cơ quan điều tra xác định bà có hai quốc tịch Việt Nam và Cộng hòa Cyprus. Tuy nhiên, điều này không làm thay đổi cách xử lý vụ án.

Trong quá trình điều tra và xét xử, bà Hằng vẫn được xem là công dân Việt Nam. Quốc tịch Cyprus không mang lại bất kỳ đặc quyền pháp lý nào, vì bà không thuộc diện được miễn trừ ngoại giao Việt Nam không có hiệp định bảo hộ công dân với quốc gia này.

Toàn bộ quá trình tố tụng diễn ra theo pháp luật Việt Nam, như đối với mọi công dân Việt khác. Việc mang thêm một quốc tịch không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự khi vi phạm pháp luật trong nước.

II. Khung pháp lý về hai quốc tịch tại Việt Nam

Khung pháp lý về hai quốc tịch tại Việt Nam

1. Quy định về quốc tịch theo Luật Quốc tịch Việt Nam

Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định rõ nguyên tắc cơ bản công dân Việt Nam chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, người Việt Nam có thể mang hai quốc tịch nếu được phép.

Cụ thể, Điều 4 của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định:

Luật Quốc tịch Việt Nam 2008

Điều 4. Nguyên tắc quốc tịch

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.

Điều đó có nghĩa là pháp luật vẫn cho phép công dân giữ quốc tịch nước ngoài trong những tình huống nhất định được pháp luật cho phép, chứ không hoàn toàn cấm mang hai quốc tịch.

Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để giải thích vì sao một số người, như bà Nguyễn Phương Hằng, vẫn có thể mang hai quốc tịch mà không vi phạm luật.

2. Các trường hợp công dân Việt Nam được phép giữ hai quốc tịch

Theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, một công dân Việt Nam có thể mang thêm quốc tịch nước ngoài nếu rơi vào một số trường hợp đặc biệt và được cơ quan có thẩm quyền cho phép.

Cụ thể, những trường hợp thường gặp gồm:

  • Người xin nhập quốc tịch Việt Nam nhưng được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch gốc.

  • Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.

  • Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì được nhập quốc tịch Việt Nam mà không cần từ bỏ quốc tịch cũ.

  • Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã có quốc tịch nước ngoài nhưng chưa mất quốc tịch Việt Nam.

  • Người xin trở lại quốc tịch Việt Nam được giữ cả hai quốc tịch nếu được phép.

Các trường hợp này được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 13, khoản 3 Điều 19, khoản 5 Điều 23, Điều 37 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008:

Luật Quốc tịch Việt Nam 2008

Điều 13. Người có quốc tịch Việt Nam

1. Người có quốc tịch Việt Nam bao gồm người đang có quốc tịch Việt Nam cho đến ngày Luật này có hiệu lực và người có quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật này.

2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam.

Chính phủ quy định trình tự, thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam.

...

Điều 19. Điều kiện được nhập quốc tịch Việt Nam

...

3. Người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người quy định tại khoản 2 Điều này, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép.

...

Điều 23. Các trường hợp được trở lại quốc tịch Việt Nam

...

5. Người được trở lại quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người sau đây, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép:

a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam;

b) Có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam;

c) Có lợi cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

...

Điều 37. Quốc tịch của con nuôi chưa thành niên

1. Trẻ em là công dân Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam.

2. Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi.

3. Trẻ em là người nước ngoài được cha mẹ mà một người là công dân Việt Nam, còn người kia là người nước ngoài nhận làm con nuôi thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam của cha mẹ nuôi và được miễn các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật này.

4. Sự thay đổi quốc tịch của con nuôi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó.

Các trường hợp này đều phải tuân theo quy trình pháp lý rõ ràng, có xem xét và chấp thuận từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3. Vị trí pháp lý và nghĩa vụ của người mang hai quốc tịch 

Theo quy định tại Điều 5 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, công dân Việt Nam mang đồng thời quốc tịch nước ngoài vẫn được Nhà nước Việt Nam công nhận là công dân Việt Nam, nếu chưa thực hiện thủ tục từ bỏ quốc tịch. Điều này có nghĩa, dù có thêm quốc tịch thứ hai, cá nhân đó vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của một công dân Việt Nam khi cư trú hoặc thực hiện hành vi pháp lý trên lãnh thổ Việt Nam.

Luật Quốc tịch Việt Nam 2008

Điều 5. Quan hệ giữa Nhà nước và công dân

1. Người có quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam.

2. Công dân Việt Nam được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm các quyền công dân và phải làm tròn các nghĩa vụ công dân đối với Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật.

3. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chính sách để công dân Việt Nam ở nước ngoài có điều kiện hưởng các quyền công dân và làm các nghĩa vụ công dân phù hợp với hoàn cảnh sống xa đất nước.

4. Quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam đồng thời có quốc tịch nước ngoài đang định cư ở nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.

Pháp luật Việt Nam không phân biệt hay giảm nhẹ trách nhiệm pháp lý đối với người có hai quốc tịch. Trong trường hợp người đó vi phạm pháp luật tại Việt Nam, họ vẫn bị xử lý như một công dân Việt Nam theo các quy định hiện hành. Việc mang thêm quốc tịch nước ngoài không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ, hay tư cách pháp lý của họ trước hệ thống pháp luật Việt Nam.

III. Trách nhiệm hình sự đối với người mang hai quốc tịch

Trách nhiệm hình sự đối với người mang hai quốc tịch

Pháp luật Việt Nam quy định rõ rằng mọi công dân Việt Nam, dù mang một hay hai quốc tịch, đều phải chịu trách nhiệm hình sự nếu có hành vi vi phạm pháp luật. Điều 2, Điều 3 và Điều 5 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:

Bộ luật Hình sự 2015

Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự

1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Điều 3. Nguyên tắc xử lý

1. Đối với người phạm tội:

a) Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;

b) Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;

c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra;

đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục;

e) Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện;

g) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.

2. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội:

a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;

b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;

c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;

d) Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.

...

Điều 5. Hiệu lực của Bộ luật hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.

2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập quán quốc tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Trong trường hợp người mang hai quốc tịch phạm tội tại Việt Nam, họ vẫn được xác định là công dân Việt Nam nếu chưa mất quốc tịch gốc. Do đó, họ không được hưởng bất kỳ quyền miễn trừ nào, trừ khi là đối tượng có quyền miễn trừ ngoại giao hoặc có điều ước quốc tế quy định khác. Thực tế, quốc tịch thứ hai không phải là yếu tố có thể làm thay đổi bản chất xử lý hình sự theo pháp luật Việt Nam.

IV. Phân tích vụ án bà Nguyễn Phương Hằng dưới góc độ hai quốc tịch

Phân tích vụ án bà Nguyễn Phương Hằng dưới góc độ hai quốc tịch

Sau khi có hành vi phát ngôn xúc phạm và vu khống nhiều cá nhân thông qua các buổi livestream, bà Nguyễn Phương Hằng bị khởi tố vào tháng 3/2022 theo Điều 331 Bộ luật Hình sự. Quá trình tố tụng kéo dài do có nhiều lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung, làm rõ vai trò của các cá nhân liên quan. Trong thời gian này, cơ quan điều tra xác định bà Hằng mang hai quốc tịch Việt Nam và Cộng hòa Cyprus.

Yếu tố hai quốc tịch không làm thay đổi tư cách pháp lý của bà Nguyễn Phương Hằng trong vụ án.

Thứ nhất, bà vẫn được xác định là công dân Việt Nam và hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nên hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam. Thứ nhất, bà vẫn được xác định là công dân Việt Namhành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, nên hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, giữa Việt Nam và Cộng hòa Cyprus không tồn tại bất kỳ hiệp định nào liên quan đến bảo hộ công dân hoặc miễn trừ pháp lý. Thứ hai, giữa Việt Nam và Cộng hòa Cyprus không tồn tại bất kỳ hiệp định nào liên quan đến bảo hộ công dân hoặc miễn trừ pháp lý.
Thứ ba, bà Hằng không thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao theo quy định của luật quốc tế. Thứ ba, bà Hằng không thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao theo quy định của luật quốc tế.
Ngày 21/9/2023, Tòa án Nhân dân TP.HCM tuyên phạt bà Nguyễn Phương Hằng 3 năm tù giam. Quốc tịch thứ hai không được xem là yếu tố làm thay đổi trách nhiệm pháp lý hay là tình tiết giảm nhẹ trong quá trình xét xử. 


V. Kết luận

Việc bà Nguyễn Phương Hằng mang hai quốc tịch không làm thay đổi cách áp dụng pháp luật trong vụ án. Với tư cách là công dân Việt Nam, bà vẫn bị điều tra, truy tố và xét xử theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam. Quốc tịch thứ hai không tạo ra bất kỳ đặc quyền pháp lý nào, cũng không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự. Vụ án này khẳng định nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, cho thấy pháp luật Việt Nam luôn xử lý nghiêm minh, không phân biệt người có một hay nhiều quốc tịch.

Tố Uyên
Biên tập

Là một người yêu thích phân tích các vụ việc pháp lý và luôn cập nhật các vấn đề thời sự pháp luật, Uyên luôn tìm kiếm sự cân bằng giữa độ chính xác và tính truyền cảm trong từng sản phẩm biên tập. Đố...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá