Nhìn lại những lần Việt Nam sáp nhập - chia tách tỉnh thành từ 1975 đến nay

Nhìn lại những lần Việt Nam sáp nhập - chia tách tỉnh thành từ 1975 đến nay

Việt Nam vừa tuyên bố sáp nhập hàng loạt tỉnh, giảm gần một nửa số đơn vị hành chính – một quyết định chưa từng có trong thập kỷ gần đây. Đằng sau quyết định chấn động này là cả một lịch sử sáp nhập – chia tách kéo dài nửa thế kỷ. Hãy cùng nhìn lại hành trình này!

Ngày 1/3/2025, Việt Nam công bố kế hoạch sáp nhập các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giảm từ 63 xuống còn 34 đơn vị hành chính (28 tỉnh và 6 thành phố). Đây là cuộc cải cách hành chính lớn nhất kể từ sau năm 1975, nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý và thúc đẩy phát triển vùng. Quyết định này không chỉ phản ánh tầm nhìn chiến lược về tái cấu trúc không gian phát triển quốc gia mà còn mở ra cơ hội xây dựng mô hình quản trị hiện đại, hiệu quả hơn.

Trong bài viết này, mình sẽ trình bày chi tiết các giai đoạn sáp nhập và chia tách tỉnh thành từ năm 1975 đến năm 2025, phân tích nguyên nhân của các quyết định hành chính, cũng như đánh giá tác động cụ thể đến quản lý nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội, dân cư và hạ tầng qua từng thời kỳ.

Giai đoạn sau 1975: Tái cơ cấu hành chính sau thống nhất (1975–1985)

Giai đoạn sau 1975: Tái cơ cấu hành chính sau thống nhất (1975–1985)

Các thay đổi về đơn vị hành chính

Ngay sau khi thống nhất đất nước năm 1975, Nhà nước tiến hành cải tổ mạnh mẽ bộ máy hành chính địa phương. Trước đó, cả nước có 72 đơn vị hành chính cấp tỉnh (28 ở miền Bắc và 44 ở miền Nam). Quốc hội đã ra nghị quyết xóa bỏ cấp khu và giải thể các khu tự trị, đồng thời sáp nhập hàng loạt tỉnh trên cả nước vào cuối 1975 và đầu 1976. Kết quả là đến năm 1976, tổng số tỉnh, thành giảm xuống còn 38 (Theo VnExpress).

Ví dụ:

  • Ở miền Bắc: sáp nhập Cao Bằng và Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng, hợp nhất Tuyên Quang với Hà Giang thành Hà Tuyên, Hòa Bình với Hà Tây thành Hà Sơn Bình...; ở Bắc Trung Bộ, Nghệ An và Hà Tĩnh hợp nhất thành Nghệ Tĩnh; tại miền Trung, sáp nhập Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế (cùng khu Vĩnh Linh) thành Bình Trị Thiên.
  • Tại Nam Bộ, hàng loạt tỉnh nhỏ thời Việt Nam Cộng hòa được nhập lại: ba tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Long thành tỉnh Sông Bé; tỉnh Biên Hòa, Tân Phú, Bà Rịa – Long Khánh nhập thành Đồng Nai; Sa ĐécKiến Phong thành tỉnh Đồng Tháp; Long XuyênChâu Đốc thành An Giang; Mỹ Tho, Gò Công (cùng TP Mỹ Tho) thành Tiền Giang; Phong Dinh, Ba Xuyên, Chương Thiện nhập thành tỉnh Hậu Giang; Bạc LiêuCà Mau thành Minh Hải. Cũng trong năm 1976, thành phố Sài Gòn – Gia Định được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương.

Văn bản liên quan: Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc chính thức đặt tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là thành phố Hồ Chí Minh

Thành phố Sài Gòn – Gia Định được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1976

Thành phố Sài Gòn – Gia Định được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1976

Sau đợt hợp nhất lớn 1975–1976, chính quyền tiếp tục có một số thay đổi đơn vị hành chính nhỏ vào cuối thập niên 1970. Tháng 12/1978, tỉnh Cao Lạng được tách trở lại thành Cao BằngLạng Sơn. Song song, Quốc hội phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện lân cận vào Thủ đô (các huyện thuộc Vĩnh Phú và Hà Tây, giúp Hà Nội mở rộng đáng kể diện tích). Năm 1979, đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo được thành lập (tách khỏi tỉnh Đồng Nai), trực thuộc Trung ương như một đơn vị hành chính cấp tỉnh đặc thù. Như vậy, đến năm 1980, cả nước có tổng cộng 40 đơn vị hành chính cấp tỉnh (gồm 38 tỉnh/thành và 1 đặc khu).

Thủ Đô Hà Nội 1975 -1976

Nguyên nhân

Những quyết sách sáp nhập ngay sau thống nhất xuất phát từ nhu cầu xây dựng một bộ máy quản lý tập trung, thống nhất trên phạm vi cả nước và tinh giản các đơn vị hành chính manh mún tồn tại từ thời kỳ chiến tranh. Theo TS. Nguyễn Sĩ Dũng (nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội), Nhà nước chủ trương hình thành các tỉnh có quy mô đủ lớn, thuận lợi cho phát triển kinh tế, quy hoạch hạ tầng và tổ chức sản xuất sau 1975 (Theo VTC News).

Việc giảm số lượng tỉnh khi đó nhằm tối ưu hóa nguồn lực và tăng cường kiểm soát tập trung của trung ương trong bối cảnh cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, việc bãi bỏ các khu tự trị ở miền Bắc cho thấy chính quyền muốn xóa cấp trung gianđặt vùng dân tộc thiểu số dưới sự quản lý trực tiếp của tỉnh, đảm bảo sự thống nhất về chính sách. Có thể nói, trong điều kiện giao thông, thông tin còn lạc hậu và nguồn nhân lực quản lý hạn chế sau chiến tranh, trung ương tin rằng các tỉnh lớn sẽ dễ điều hành hơn là quá nhiều tỉnh nhỏ rời rạc. Việc sáp nhập cũng kế thừa mô hình quản trị thời bao cấp, coi trọng kế hoạch hóa tập trung, do đó bộ máy hành chính gọn nhẹ với các đơn vị quy mô lớn được xem là phù hợp trong giai đoạn này.

Tác động

Đợt sáp nhập 1975–1976 đã tinh gọn đáng kể bộ máy hành chính cấp tỉnh, từ 72 đơn vị xuống còn 38, giúp chính quyền trung ương dễ dàng triển khai đồng nhất các chính sách trên cả nước. Việc hợp nhất cũng tạo điều kiện phân bổ lại nguồn lực: các tỉnh mới có quy mô lớn hơn, bao quát nhiều vùng kinh tế, giúp trung ương tập trung đầu tư phục hồi sau chiến tranh mà không phải trải mỏng ngân sách. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành cuối thập niên 1970, một số tỉnh sáp nhập bộc lộ khó khăn trong quản lý do địa bàn quá rộng và không đồng nhất.

Thực tế cho thấy “nếu tỉnh lớn quá thì khó quản lý, rất vất vả” trong bối cảnh đường sá, liên lạc còn hạn chế. Việc phải tách Cao Lạng chỉ sau 2 năm, cũng như duy trì quy mô đặc khu cho Vũng Tàu – Côn Đảo, cho thấy cần sự linh hoạt hơn trong công việc sáp nhập hay chia tác của chính phủ. Bên cạnh đó, yếu tố đặc thù văn hóa – lịch sử của nhiều địa phương không dễ dung hòa trong các tỉnh hợp nhất: người dân vẫn mong muốn khôi phục tên gọi tỉnh cũ và được quan tâm sát hơn. Những tiền đề này dẫn đến các đợt chia tách tỉnh về sau nhằm phù hợp hơn với thực tiễn quản lý.

Giai đoạn Đổi Mới (1986–2000): Chia tách tỉnh để phát huy địa phương

giai-doan-doi-moi.jpg

Các thay đổi về đơn vị hành chính

Bước sang thời kỳ Đổi Mới (từ năm 1986), đặc biệt cuối thập niên 1980, Nhà nước bắt đầu điều chỉnh các đơn vị hành chính theo hướng tách nhỏ các tỉnh lớn được sáp nhập trước đây. Năm 1989, Quốc hội thông qua việc xóa bỏ một số tỉnh hợp nhất ở miền Trung: tỉnh Bình Trị Thiên tách trở lại thành Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên–Huế; tỉnh Nghĩa Bình chia thành Bình Định và Quảng Ngãi; tỉnh Phú Khánh tách thành Phú Yên và Khánh Hòa. Kết quả là cả nước có 44 đơn vị cấp tỉnh (gồm 40 tỉnh, 3 thành phố trực thuộc Trung ương và đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo).

Văn bản liên quan: Nghị quyết về việc phân vạch địa giới hành chính của các tỉnh Nghĩa Bình, Phú Khánh và Bình Trị Thiên

Huế - Thời Kỳ Đổi Mới 1990

Tiếp đó, một đợt tách tỉnh quy mô lớn diễn ra vào năm 1991. Hàng loạt tỉnh hợp nhất từ 1976 được tách thành các tỉnh như trước: Hà Sơn Bình tách thành Hà Tây và Hòa Bình; Hà Nam Ninh tách thành Nam Hà và Ninh Bình; Nghệ Tĩnh tách lại Nghệ An và Hà Tĩnh; Hoàng Liên Sơn tách thành Yên Bái và Lào Cai; Hà Tuyên tách thành Tuyên Quang và Hà Giang; Gia Lai – Kon Tum tách thành Gia Lai và Kon Tum; Thuận Hải tách thành Bình Thuận và Ninh Thuận; Cửu Long tách thành Vĩnh Long và Trà Vinh; Hậu Giang (tỉnh tên gọi cũ) tách thành Cần Thơ và Sóc Trăng (Theo VnExpress). Cũng trong năm 1991, Quốc hội quyết định thành lập tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở sáp nhập đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo (bị giải thể) với 3 huyện tách ra từ tỉnh Đồng Nai. Sau đợt này, số đơn vị hành chính tăng lên 53 tỉnh, thành.

Chưa dừng lại, xu hướng tách tỉnh tiếp diễn sang giữa thập niên 1990. Giai đoạn 1996–1997, Quốc hội lần lượt phê chuẩn việc tái lập nhiều tỉnh mới, nâng tổng số đơn vị lên 61 vào năm 1997.

  • Cụ thể: tỉnh Bắc Thái tách thành Thái Nguyên và Bắc Kạn; Vĩnh Phú tách thành Vĩnh Phúc và Phú Thọ; Hà Bắc tách thành Bắc Giang và Bắc Ninh; Hải Hưng tách thành Hải Dương và Hưng Yên; tỉnh Nam Hà (được lập năm 1991) tiếp tục tách thành Nam Định và Hà Nam.
  • Ở miền Trung, Quảng Nam – Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương. Tại Nam Bộ, Minh Hải tách thành Cà Mau và Bạc Liêu; Sông Bé tách thành Bình Dương và Bình Phước. Như vậy, trong vòng chưa đầy 10 năm (1989–1997), bản đồ hành chính Việt Nam đã “phục hồi” phần lớn các tỉnh từng sáp nhập sau 1975, trả lại tên cho nhiều địa phương.

Quảng Nam – Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương

Quảng Nam – Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương

Nguyên nhân

Động lực chính của các đợt chia tách tỉnh thời kỳ Đổi Mới là nhu cầu quản lý linh hoạt, gần dân hơn và phù hợp với đặc thù địa phương trong cơ chế thị trường mới. Sau một thập kỷ thử nghiệm các tỉnh quy mô lớn, nhiều bất cập đã nảy sinh: các tỉnh quá rộng gặp khó khăn trong quản lý hành chính, phát triển kinh tế – xã hội và cung cấp dịch vụ công cho người dân ở vùng xa (Theo VTC News).

Khi chuyển sang kinh tế thị trường và phân cấp nhiều hơn cho địa phương, mô hình tỉnh lớn tỏ ra kém hiệu quả so với những đơn vị nhỏ hơn, nơi chính quyền có thể bám sát cơ sở và hiểu rõ đặc thù từng vùng. Do đó, từ cuối những năm 1980, Nhà nước điều chỉnh chiến lược của mình, thực hiện việc chia tách để mỗi tỉnh “có quy mô phù hợp với năng lực quản lý” của đội ngũ cán bộ.

Mặt khác, yếu tố tâm lý, truyền thống lịch sử cũng được tính đến: việc tái lập các tỉnh cũ giúp khôi phục bản sắc địa phương và tạo đồng thuận trong nhân dân vốn “mong chờ đã lâu” việc tách tỉnh. Chính phủ thời kỳ này lý giải rằng việc chia tỉnh “tạo điều kiện cho địa phương phát triển, tăng cường năng lực… thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, đồng thời cải cách hành chính nhà nước. Mỗi tỉnh nhỏ sau tách có tính thuần nhất hơn về tự nhiên, xã hội, thuận lợi để định hướng phát triển và khai thác hiệu quả tiềm năng riêng. Đáng chú ý, các quyết định năm 1996–1997 được đưa ra trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa (sau Đại hội VIII của Đảng), nên việc tách tỉnh được kỳ vọng thúc đẩy cạnh tranh và động lực phát triển giữa các địa phương.

Tác động

Thành phố Bình Dương 2010

Bình Dương (sau tách từ Sông Bé) đã vươn lên thành một cực tăng trưởng công nghiệp

Thực tế cho thấy việc chia tách tỉnh giai đoạn này đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực về kinh tế – xã hội. Sau khi tách, mỗi tỉnh mới có bộ máy gọn nhẹ hơn, lãnh đạo tỉnh gần cơ sở và chỉ đạo kịp thời hơn, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương. Nghiên cứu số liệu thống kê cho thấy trong giai đoạn 2000–2010, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của nhiều tỉnh (đặc biệt các tỉnh quy mô nhỏ) đạt 8–9%/năm, vượt trội so với mức trung bình toàn quốc ~6–7%.

Chẳng hạn:

  • Tỉnh Bình Dương (sau tách từ Sông Bé) đã vươn lên thành một cực tăng trưởng công nghiệp: GDP bình quân đầu người tăng từ khoảng 1.000 USD năm 2000 lên hơn 3.000 USD năm 2010 (Theo VTC News).
  • Nhiều tỉnh nhỏ linh hoạt thu hút đầu tư nước ngoài, số dự án FDI tăng 30–50% so với giai đoạn trước. Việc chia tách cũng phục hồi sinh khí địa phương – các tỉnh như Bắc Ninh, Hưng Yên (tách năm 1997) dù diện tích nhỏ nhưng tận dụng lợi thế gần thủ đô để phát triển công nghiệp và đô thị hóa nhanh.

Tuy nhiên, mặt trái là sự gia tăng số lượng tỉnh kéo theo bộ máy hành chính phình to hơn trên cả nước. Từ 38 tỉnh thành năm 1976 lên 61 tỉnh thành năm 1997 đồng nghĩa phải thành lập thêm nhiều sở ban ngành và biên chế cán bộ tỉnh. Chi phí quản lý hành chính vì thế cũng tăng. Dù vậy, trong bối cảnh địa phương đang cần tự chủ năng động, thì mô hình tỉnh nhỏ được xem là cái giá chấp nhận được để đạt hiệu quả phát triển. Đến cuối thập niên 1990, bản đồ hành chính ổn định với 61 đơn vị (57 tỉnh, 4 thành phố trực thuộc Trung ương) (Theo VnExpress), tạo tiền đề cho những bước điều chỉnh & thay đổi đơn vị hành chính tiếp theo trong thế kỷ 21.

Giai đoạn sau 2000: Hiện đại hóa và mở rộng đô thị (2000–2025)

Việt Nam Giai đoạn sau 2000: Hiện đại hóa và mở rộng đô thị (2000–2025)

Các thay đổi về đơn vị hành chính

Bước vào những năm đầu thế kỷ 21, chính quyền trung ương tiếp tục xem xét thay đổi cục bộ ở một vài địa bàn chiến lược. Năm 2003, Quốc hội thông qua Nghị quyết chia tách và điều chỉnh địa giới một số tỉnh (hiệu lực từ 2004).

Theo đó, tỉnh Đắk Lắk rộng lớn ở Tây Nguyên được chia thành Đắk Lắk (mới) và Đắk Nông; tỉnh Lai Châu được chia thành Lai Châu (mới) và Điện Biên; đồng thời tách thành phố Cần Thơ (trực thuộc Trung ương) ra khỏi tỉnh Cần Thơ cũ và phần còn lại lập thành tỉnh Hậu Giang. Sau đợt này, Việt Nam có 59 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương (tổng cộng 64 đơn vị).

Đến giữa năm 2008, một thay đổi lớn về địa giới thủ đô diễn ra: Quốc hội quyết nghị mở rộng Hà Nội bằng cách sáp nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (từ Vĩnh Phúc) và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn (Hòa Bình) vào thành phố Hà Nội. Nhờ đó, diện tích Thủ đô tăng lên hơn 3.300 km², đưa Hà Nội trở thành một trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Việc sáp nhập này đã giảm số lượng tỉnh thành từ 64 xuống còn 63 đơn vị (do tỉnh Hà Tây không còn) và con số 63 tỉnh, thành được duy trì ổn định từ 2008 đến nay (Theo VnExpress).

Thành phố Cần Thơ - Trực thuộc Trung Ương 2003 - 2025

Việt Nam tách thành phố Cần Thơ (trực thuộc Trung ương) ra khỏi tỉnh Cần Thơ cũ vào năm 2003

Nguyên nhân

Các quyết định thay đổi về đơn vị hành chính sau năm 2000 đều gắn với mục tiêu phục vụ chiến lược phát triển quốc gia trong giai đoạn mới. Trường hợp chia tách năm 2003–2004, mỗi tỉnh liên quan có hoàn cảnh riêng:

  • Đắk Lắk khi đó là tỉnh có diện tích lớn nhất nước (hơn 2 triệu ha, địa hình đồi núi trải rộng), dân cư thưa và quản lý rất khó khăn, nên việc tách ra tỉnh Đắk Nông ở phía nam là cần thiết để chính quyền địa phương gần dân hơn. Mặt khác, Đắk Nông mới thành lập tập trung nhiều đồng bào dân tộc M’nông, còn phần Đắk Lắk sau tách chủ yếu người Êđê – phân tách này phần nào giúp bảo tồn bản sắc văn hóa từng vùng dân tộc tốt hơn.
  • Đối với Lai Châu, lý do đặc thù là dự án xây dựng thủy điện Sơn La sẽ tạo thành hồ nước lớn chia cắt tỉnh cũ ra hai nửa nam – bắc, do đó tách Điện Biên ở phía nam (vùng lòng chảo Điện Biên) và Lai Châu ở phía bắc là “tất yếu” để tiện quản lý mỗi bên bờ sông Đà.
  • Còn tại Đồng bằng sông Cửu Long, việc nâng cấp Cần Thơ thành thành phố trực thuộc Trung ương nhằm xây dựng một đô thị hạt nhân cho cả vùng Tây Nam Bộ, làm trung tâm kinh tế, khoa học, giáo dục và dịch vụ của khu vực. Tỉnh Hậu Giang (mới) được tái lập từ phần đất còn lại của Cần Thơ cũ sẽ tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp chế biến, bổ trợ cho đô thị Cần Thơ (Theo VnExpress). Nhìn chung, trong bối cảnh đầu thế kỷ 21, Nhà nước tiến hành các thay đổi này để thúc đẩy phát triển cân bằng: chia nhỏ những địa bàn quá lớn, khó quản lý; đồng thời tăng cường vai trò đô thị trung tâm tại các vùng kinh tế trọng điểm (ví dụ, Đà Nẵng 1997, Cần Thơ 2004).

Giai đoạn mở rộng Hà Nội 2008

Hà Nội được mở rộng vào năm 2008

  • Riêng quyết định mở rộng Hà Nội năm 2008, nguyên nhân chủ yếu mang tính chiến lược và lâu dài. Thủ đô Hà Nội trước 2008 được đánh giá là chật hẹp, thiếu không gian phát triển, trong khi vùng lân cận (Hà Tây, Mê Linh, Lương Sơn) có tiềm năng nhưng phân tán. Việc sáp nhập cả tỉnh Hà Tây và các khu vực lân cận vào Hà Nội nhằm bảo đảm không gian phát triển bền vững cho Thủ đô trong hiện tại và tương lai, đồng thời tạo điều kiện để Hà Nội mở rộng mọi mặt xứng tầm trung tâm đa chức năng quốc gia. Quyết định này cũng nằm trong định hướng quy hoạch vùng Thủ đô, giúp Hà Nội có quỹ đất lớn cho các dự án hạ tầng, đô thị mới, và quản lý thống nhất vùng “siêu đô thị” thay vì tách rời hành chính.

Tác động

Sau những lần thay đổi đơn vị hành chính trong đầu thập niên 2000, cơ cấu hành chính Việt Nam tương đối ổn định với 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho đến 2025. Việc thành lập Đắk Nông giúp chính quyền địa phương quản lý hiệu quả hơn vùng Tây Nguyên rộng lớn, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở vùng đất trước kia xa trung tâm tỉnh.

Tương tự, Điện Biên tách ra đã tập trung nguồn lực xây dựng TP. Điện Biên Phủ và cơ sở hạ tầng khu vực biên giới Tây Bắc, trong khi tỉnh Lai Châu mới cũng phát triển thị xã Lai Châu thành trung tâm mới ở phía Bắc. Cần Thơ trở thành đô thị loại I trực thuộc Trung ương, đến nay giữ vai trò đô thị dẫn dắt vùng Mekong (thành trung tâm công nghiệp chế biến nông sản, thương mại dịch vụ và giáo dục của miền Tây) như kỳ vọng.

Hà Nội mở rộng tuy tạo ra thách thức quản lý một siêu đô thị diện tích gấp ba trước đây, nhưng cũng đem lại cơ hội quy hoạch dài hạn: nhiều huyện ngoại thành trước thuộc tỉnh khác nay được đầu tư trở thành các quận, thị xã mới; thị trường bất động sản và kết cấu hạ tầng vùng Thủ đô được mở rộng đáng kể. Số lượng tỉnh giảm xuống 63 giúp tinh giản bộ máy cấp tỉnh đôi chút, song quan trọng hơn là giúp Hà Nội có nguồn lực và không gian để cạnh tranh với các thủ đô trong khu vực.

giảm bớt gánh nặng quản lý, tối ưu nguồn lực phát triểnViệc thay đổi cơ cấu hành chính giúp giảm bớt gánh nặng quản lý, tối ưu nguồn lực phát triển

Đến giai đoạn 2010–2025, tuy không có biến động về địa giới cấp tỉnh, nhưng chủ trương chung của Nhà nước là tiếp tục hoàn thiện tổ chức hành chính theo hướng tinh gọn và hiệu quả. Năm 2023–2025, trước thực trạng nhiều tỉnh có quy mô dân số và diện tích nhỏ không đạt tiêu chuẩn, lãnh đạo Đảng và Chính phủ đã đặt vấn đề sáp nhập một số tỉnh nhằm giảm bớt gánh nặng quản lý, tối ưu nguồn lực phát triển.

Theo Bộ Nội vụ, hiện có 10 tỉnh không đạt đồng thời cả ba tiêu chí (về dân số, diện tích, số đơn vị hành chính cấp huyện), và hàng chục tỉnh khác không đạt một hoặc hai tiêu chí. Bối cảnh mới với hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin phát triển khiến khoảng cách giữa trung ương và địa phương không còn là rào cản, Trung ương có thể giám sát tốt kể cả khi tỉnh lớn hơn. Vì vậy, xu hướng sáp nhập tỉnh tái xuất hiện như một giải pháp để “tinh giản bộ máy, giảm bớt tầng nấc trung gian và nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia”.

Mục tiêu cuối cùng là xây dựng đơn vị hành chính hợp lý cho giai đoạn phát triển mới, khắc phục tình trạng manh mún gây tốn kém ngân sách mà thiếu liên kết vùng (Theo VTC News). Mặc dù đến 2025 việc sáp nhập tỉnh mới chỉ ở bước nghiên cứu, có đề xuất mạnh dạn giảm từ 63 xuống còn 34 tỉnh, thành trong tương lai, nhưng điều này cho thấy vòng tuần hoàn sáp nhập - chia tách đơn vị hành chính vẫn tiếp diễn để phù hợp với thực tiễn. Những năm tới, nếu được thực thi, việc sáp nhập tỉnh sẽ đánh dấu một bước chuyển mô hình quản trị mới, tương tự như sau 1975, nhưng trong bối cảnh hiện đại hơn.

Bảng tổng hợp các đợt thay đổi tỉnh, thành (1975–2025)

Dưới đây là bảng thống kê tóm tắt các đợt sáp nhập và chia tách tỉnh, thành chính ở Việt Nam từ 1975 đến 2025, kèm thời gian, phạm vi thay đổi, hình thức và lý do chính:

Năm/Đợt Phạm vi thay đổi hành chính cấp tỉnh Hình thức điều chỉnh Lý do chính
1975–1976 Sáp nhập hàng loạt tỉnh trên cả nước, từ 72 tỉnh/thành giảm còn 38 (Ví dụ: hợp nhất Cao Bằng + Lạng Sơn = Cao Lạng; Nghệ An + Hà Tĩnh = Nghệ Tĩnh; Bình Dương + Bình Long + Phước Long = Sông Bé; …). Sáp nhập (hợp nhất tỉnh) Tinh gọn bộ máy sau thống nhất; hình thành tỉnh quy mô lớn để thuận lợi cho quản lý, phát triển kinh tế và quy hoạch trong mô hình kế hoạch hóa tập trung.
1978 Tách tỉnh Cao Lạng thành Cao BằngLạng Sơn; mở rộng Hà Nội (sáp nhập thêm 5 huyện lân cận vào Thủ đô). Kết quả: 39 tỉnh/thành. Chia tách (và điều chỉnh ranh giới) Do tỉnh hợp nhất quá rộng, quản lý khó khăn; Hà Nội cần mở rộng không gian để phát triển đô thị.
1979 Thành lập Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo (trực thuộc Trung ương, tách khỏi tỉnh Đồng Nai). Tổng cộng: 40 tỉnh/thành. Tách đơn vị hành chính đặc thù Quản lý trực tiếp vùng dầu khí và quân sự trọng yếu (Vũng Tàu, Côn Đảo) ở cấp Trung ương.
1989 Tách các tỉnh hợp nhất ở miền Trung: Bình Trị Thiên tách thành Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên–Huế; Nghĩa Bình tách thành Bình Định, Quảng Ngãi; Phú Khánh tách thành Phú Yên, Khánh Hòa. Số tỉnh/thành: 44. Chia tách tỉnh Tỉnh quá lớn, khó quản lý; khôi phục địa danh cũ theo nguyện vọng địa phương; phù hợp hơn với đặc điểm kinh tế – xã hội từng vùng.
1991 Tách loạt tỉnh lớn hợp nhất trước đây: Hà Sơn Bình → Hà Tây, Hòa Bình; Hà Nam Ninh → Nam Hà, Ninh Bình; Nghệ Tĩnh → Nghệ An, Hà Tĩnh; Hoàng Liên Sơn → Yên Bái, Lào Cai; Hà Tuyên → Tuyên Quang, Hà Giang; Gia Lai–Kon Tum → Gia Lai, Kon Tum; Thuận Hải → Bình Thuận, Ninh Thuận; Cửu Long → Vĩnh Long, Trà Vinh; Hậu Giang (cũ) → Cần Thơ, Sóc Trăng. Đồng thời, thành lập mới tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (hợp nhất đặc khu Vũng Tàu–Côn Đảo với 3 huyện tách từ Đồng Nai). Kết quả: 53 tỉnh/thành. Chia tách tỉnh; thành lập tỉnh mới Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đưa chính quyền tỉnh gần dân hơn; đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH từng địa bàn; khôi phục truyền thống địa phương.
1996–1997 Tiếp tục chia tách 8 tỉnh: Bắc Thái → Thái Nguyên, Bắc Kạn; Hà Bắc → Bắc Giang, Bắc Ninh; Hải Hưng → Hải Dương, Hưng Yên; Vĩnh Phú → Vĩnh Phúc, Phú Thọ; Nam Hà → Nam Định, Hà Nam; Quảng Nam–Đà Nẵng → Quảng Nam, Đà Nẵng (TP trực thuộc TW); Sông Bé → Bình Dương, Bình Phước; Minh Hải → Cà Mau, Bạc Liêu. Đến 1997 có 61 tỉnh/thành. Chia tách tỉnh; nâng cấp đô thị (Đà Nẵng) Tạo điều kiện cho địa phương phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bộ máy tỉnh gọn, quản trị phù hợp năng lực cán bộ; hình thành đô thị trung tâm vùng (Đà Nẵng).
2003–2004 Chia tách 3 tỉnh: Đắk Lắk → Đắk Lắk, Đắk Nông; Lai Châu → Lai Châu, Điện Biên; Cần Thơ (tỉnh) → TP Cần Thơ (TW), tỉnh Hậu Giang. Số đơn vị tăng thành 64 (59 tỉnh + 5 TP). Chia tách tỉnh; thành lập TP trực thuộc TW Địa bàn quá rộng, địa lý phức tạp cần tách để quản lý (Đắk Lắk, Lai Châu); phát triển đô thị trung tâm vùng (Cần Thơ); chuẩn bị hạ tầng cho dự án lớn (thuỷ điện Sơn La tại Lai Châu).
2008 Mở rộng Hà Nội: sáp nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã của Hòa Bình vào TP Hà Nội. Số tỉnh/thành giảm còn 63. Sáp nhập tỉnh; điều chỉnh Thủ đô Đảm bảo không gian cho Hà Nội phát triển bền vững dài hạn; tăng quy mô Thủ đô để xứng tầm trung tâm quốc gia đa chức năng.
2025 (Đề xuất)* Đang nghiên cứu đề án sáp nhập các tỉnh nhỏ, dự kiến giảm từ 63 xuống khoảng 34 tỉnh/thành; đồng thời bỏ cấp huyện trong tổ chức hành chính (mô hình 2 cấp: tỉnh và xã). Sáp nhập tỉnh (dự kiến) Mục tiêu: Tinh gọn bộ máy, giảm tầng nấc trung gian; tối ưu nguồn lực, liên kết vùng; khắc phục nhiều tỉnh quy mô quá nhỏ, ngân sách hạn hẹp.

Chú thích: Mốc 2025 chưa thực hiện, chỉ là đề xuất trong Kết luận 2025 của Bộ Chính trị. Các đợt thay đổi trước đây (1975–2008) đã được thực hiện theo nghị quyết của Quốc hội.

Kết luận

Từ 1975 đến 2025, bản đồ hành chính Việt Nam đã trải qua nhiều lần chia tách, sáp nhập, điều chỉnh để phù hợp với mô hình phát triển của từng thời kỳ. Mỗi lần sáp nhập hay chia tách đều phản ánh nỗ lực cải thiện hiệu quả quản lý và khai thác tốt hơn tiềm năng địa phương. Nhìn về tương lai, với nền tảng hạ tầng và công nghệ ngày càng hiện đại, Việt Nam có cơ hội xây dựng một mô hình quản trị tinh gọn, hiệu quả hơn, tạo điều kiện phát triển cân bằng giữa các vùng miền. Nếu thực hiện bài bản, việc tái cấu trúc hành chính sắp tới có thể mở ra một giai đoạn phát triển mới, bền vững và đột phá hơn cho đất nước.

Nguồn nghiên cứu:

  • VnExpress
  • VTC News
  • BBC, CNN
Dịu My
Biên tập

Là một chuyên viên pháp lý năng động, có khả năng nghiên cứu các quy định pháp luật của vấn đề liên quan cho 01 công ty vừa và nhỏ như: luật doanh nghiệp, lao động, thuế, sở hữu trí tuệ, nhân sự nước...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Choose your rating score:
Name (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Rating content