Người không còn quốc tịch Việt Nam có được hưởng thừa kế của cha mẹ ở Việt Nam không?

Người không còn quốc tịch Việt Nam có được hưởng thừa kế của cha mẹ ở Việt Nam không?

Người đã mất quốc tịch Việt Nam vẫn có thể được hưởng thừa kế tại Việt Nam nếu đáp ứng điều kiện theo quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Quốc tịch hiện hành.

Trong bối cảnh nhiều người Việt định cư nước ngoài và đã thôi quốc tịch, nhu cầu nhận thừa kế tài sản từ cha mẹ ở trong nước ngày càng phổ biến. Câu hỏi đặt ra là người không còn quốc tịch Việt Nam có còn được hưởng di sản thừa kế hay không? và điều kiện để được nhận phần di sản đó là gì? Bên cạnh đó, nếu di sản là nhà đất, cần làm rõ người thừa kế có được đứng tên sở hữu tài sản tại Việt Nam hay bị giới hạn theo quy định của pháp luật chuyên ngành.


1. Người không còn quốc tịch Việt Nam có được hưởng di sản thừa kế tại Việt Nam không?

Trả lời vắn tắt: Có. Người đã thôi quốc tịch Việt Nam hoặc đang mang quốc tịch nước ngoài vẫn có quyền hưởng di sản thừa kế tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật Dân sự nếu thuộc hàng thừa kế hợp pháp và không bị hạn chế bởi điều kiện pháp luật đặc thù.

Người không còn quốc tịch Việt Nam có được hưởng di sản thừa kế tại Việt Nam không?

Điều 680 Bộ luật Dân sự 2015 quy định cụ thể: 

Bộ luật Dân sự 2015

Điều 680. Thừa kế

1. Thừa kế được xác định theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch ngay trước khi chết.

2. Việc thực hiện quyền thừa kế đối với bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.

Theo quy định tại Điều 680 Bộ luật Dân sự 2015, người nước ngoài hoặc người không có quốc tịch vẫn được hưởng thừa kế tại Việt Nam, dù là thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật. Việc mất quốc tịch Việt Nam không đồng nghĩa với việc mất quyền thừa kế đối với tài sản cha mẹ để lại tại Việt Nam, miễn là người đó có quan hệ huyết thống hợp pháp hoặc được chỉ định trong di chúc hợp lệ.

Pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền thừa kế dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu và quyền thừa kế bình đẳng, không phân biệt quốc tịch nếu không có quy định cụ thể hạn chế. Do đó, một người con đã định cư nước ngoài, có hoặc không có quốc tịch Việt Nam, vẫn được thừa kế di sản của cha mẹ để lại, bao gồm cả các loại tài sản như nhà, đất, tiền, hoặc tài sản có giá trị khác, miễn là không thuộc trường hợp bị truất quyền thừa kế hoặc đang có tranh chấp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến việc chia di sản.

Cần lưu ý rằng tuy được hưởng thừa kế, quyền sử dụng và sở hữu tài sản tại Việt Nam, đặc biệt là nhà đất, sẽ chịu sự điều chỉnh riêng của Luật Đất đai, Luật Nhà ở và quy định dành cho người nước ngoài

Tình huống giả định 

Chị Trần Thị Bích Ngọc, sinh năm 1980 tại tỉnh Quảng Nam, là con gái út trong một gia đình có 4 anh chị em. Năm 2002, sau khi tốt nghiệp đại học, chị Ngọc sang Mỹ du học theo diện học bổng và sau đó ở lại làm việc, kết hôn với người Mỹ, nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Đến năm 2015, chị Ngọc hoàn tất thủ tục thôi quốc tịch Việt Nam theo đúng quy định và hiện tại chỉ mang quốc tịch Mỹ.

Trong thời gian ở nước ngoài, chị vẫn thường xuyên giữ liên lạc với cha mẹ tại Việt Nam, hỗ trợ tài chính và thăm nhà định kỳ. Năm 2024, cha chị — ông Trần Văn Tâm — qua đời đột ngột mà không để lại di chúc. Ông Tâm có tài sản là một căn nhà tại TP. Tam Kỳ (Quảng Nam), đứng tên riêng ông, được xác định là tài sản riêng do thừa kế từ đời trước.

Ba người con còn lại đều đang sinh sống tại Việt Nam. Sau khi cha mất, họ tổ chức họp mặt gia đình để phân chia tài sản và có ý kiến cho rằng chị Ngọc đã thôi quốc tịch Việt Nam thì không còn là công dân Việt Nam nên không được quyền thừa kế, nhất là đối với bất động sản. Họ đề xuất chia căn nhà thành ba phần, loại trừ chị Ngọc.

Chị Ngọc sau đó ủy quyền cho luật sư tại Việt Nam làm thủ tục yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật. Tòa án xác định đây là trường hợp thừa kế theo pháp luật, người hưởng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm: cha mẹ, vợ chồng, con cái của người chết (theo Điều 651 BLDS 2015). Dù không còn quốc tịch Việt Nam, chị Ngọc vẫn là con ruột ông Tâm, không thuộc trường hợp bị truất quyền thừa kế, nên vẫn có quyền hưởng 1 phần 4 di sản thừa kế là căn nhà nói trên.

Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.

2. Người không còn quốc tịch Việt Nam có bị hạn chế gì khi nhận thừa kế ở Việt Nam không?

Trả lời vắn tắt: Có. Dù được hưởng di sản, nhưng người không còn quốc tịch Việt Nam có thể bị hạn chế quyền sở hữu đối với một số loại tài sản như nhà, đất theo quy định pháp luật hiện hành.

Người không còn quốc tịch Việt Nam có bị hạn chế gì khi nhận thừa kế ở Việt Nam không?

Khoản 1, Điều 44 Luật Đất đai 2024 quy định cụ thể: 

Luật Đất đai 2024

Điều 44. Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất ở của người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam; người nước ngoài hoặc người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam
1. Người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam thì được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam; có quyền sử dụng đất ở do nhận chuyển quyền sử dụng đất ở trong các dự án phát triển nhà ở.

...

Việc người không còn quốc tịch Việt Nam được hưởng thừa kế tài sản tại Việt Nam là điều được pháp luật dân sự thừa nhận. Tuy nhiên, khi di sản là bất động sản như nhà đất, quyền sở hữu và sử dụng tài sản này sẽ phải tuân theo quy định của Luật Đất đai 2024. Điều 44 của Luật này quy định rõ: người Việt Nam định cư ở nước ngoài, nếu được phép nhập cảnh vào Việt Nam, có thể sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở, trong một số trường hợp cụ thể như nhận chuyển nhượng trong dự án phát triển nhà ở hoặc thừa kế di sản.

Nếu người nhận thừa kế không chứng minh được nguồn gốc Việt Nam hoặc không có giấy tờ hợp pháp để nhập cảnh, họ không thuộc diện được công nhận quyền sử dụng đất tại Việt Nam. Trong trường hợp đó, pháp luật không cấm việc nhận thừa kế, nhưng giới hạn quyền sở hữu tài sản là đất đai, nhằm bảo đảm chính sách quản lý đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

Như vậy, người không còn quốc tịch Việt Nam vẫn được hưởng phần di sản là nhà đất, nhưng không thể đứng tên sở hữu nếu không đáp ứng đủ điều kiện mà pháp luật quy định.

Tình huống giả định 

Ông Nguyễn Văn Hòa, sinh năm 1960 tại Hà Nội, là con trai duy nhất trong gia đình. Năm 1990, ông Hòa sang Pháp du học và sau đó định cư tại đây, nhập quốc tịch Pháp vào năm 2000 và thôi quốc tịch Việt Nam. Dù sống ở nước ngoài, ông vẫn giữ liên lạc thường xuyên với cha mẹ tại Việt Nam.

Năm 2025, cha ông Hòa qua đời, để lại một căn nhà tại quận Ba Đình, Hà Nội. Ông Hòa trở về Việt Nam để làm thủ tục nhận thừa kế. Tuy nhiên, khi tiến hành các thủ tục pháp lý, ông được thông báo rằng, do đã thôi quốc tịch Việt Nam và không thuộc diện người gốc Việt Nam định cư ở nước ngoài được phép nhập cảnh vào Việt Nam, ông không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phần di sản thừa kế là căn nhà nói trên.

Theo quy định tại Khoản 3, Điều 44 Luật Đất đai 2024, trong trường hợp người nhận thừa kế không thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam, họ không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, nhưng được chuyển nhượng hoặc tặng cho quyền sử dụng đất thừa kế theo quy định của pháp luật .

Do đó, ông Hòa đã quyết định chuyển nhượng phần di sản thừa kế của mình cho một người họ hàng tại Việt Nam và nhận giá trị tương ứng bằng tiền. Việc chuyển nhượng được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của ông Hòa.

Tình huống trên là giả định, được xây dựng nhằm mục đích tham khảo.

Kết luận 

Việc một người đã mất quốc tịch Việt Nam nhưng có cha mẹ để lại di sản tại Việt Nam đặt ra nhiều câu hỏi pháp lý trong quá trình thừa kế. Nếu thuộc hàng thừa kế hợp pháp, người đó vẫn có quyền hưởng phần di sản như những người thừa kế khác theo quy định của Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, nếu di sản là nhà đất, họ có thể bị hạn chế quyền đứng tên sở hữu và chỉ được nhận giá trị tương ứng bằng tiền, tùy theo điều kiện mà Luật Đất đai 2024 quy định.

Tuyết Dung
Biên tập

Mình là Nguyễn Ngọc Tuyết Dung, sinh viên chương trình Chất lượng cao chuyên ngành Dân sự - Thương mại - Quốc tế tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Mình chọn ngành luật vì tin rằng pháp luật là...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá