Nhiều cặp đôi lựa chọn sống chung trước hôn nhân như một cách để tìm hiểu và chia sẻ cuộc sống. Tuy nhiên, không ít người vẫn lo ngại việc nam nữ chưa kết hôn thuê trọ sống chung có vi phạm pháp luật hay không. Pháp luật hiện hành đã quy định cụ thể về quyền cư trú cũng như hành vi bị cấm trong quan hệ hôn nhân và gia đình để làm rõ trường hợp này.
1. Nam nữ chưa kết hôn có được thuê phòng trọ sống chung với nhau không?
Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 5. Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình
...
2. Cấm các hành vi sau đây:...
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
...
Khoản 1 Điều 4 Luật Cư trú 2020 cũng quy định như sau:
Điều 4. Việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân
1. Công dân thực hiện quyền tự do cư trú theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
...
Từ hai quy định trên có thể thấy, pháp luật chỉ cấm hành vi sống chung như vợ chồng nếu một trong hai bên đang có vợ hoặc có chồng. Trường hợp cả hai bên đều độc thân, đủ tuổi chịu trách nhiệm dân sự, thì việc thuê nhà trọ để sống chung không bị coi là hành vi vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, quyền tự do cư trú của công dân được pháp luật bảo đảm, và chỉ bị hạn chế trong một số trường hợp đặc biệt được quy định rõ ràng (như đang chấp hành án, bị quản chế, cách ly,...). Vì vậy, không thể lấy lý do chưa đăng ký kết hôn để ngăn cấm hai người trưởng thành cùng thuê trọ sinh sống.
Tình huống giả định
Nguyễn Thị Thu Hiền (26 tuổi) và Trần Văn Khánh (29 tuổi), cả hai chưa kết hôn, đều đang làm việc tại một khu công nghiệp ở Đồng Nai. Do điều kiện kinh tế hạn chế, hai người cùng thỏa thuận thuê một phòng trọ để tiện sinh hoạt và tiết kiệm chi phí. Tuy nhiên, chủ nhà trọ không đồng ý vì cho rằng nam nữ chưa kết hôn sống chung là “vi phạm pháp luật”. Dù đã giải thích nhưng vẫn bị từ chối và mất cọc.
Sau khi tìm hiểu quy định, Hiền và Khánh biết rằng việc họ cùng thuê trọ không bị pháp luật cấm. Cả hai đều trưởng thành, độc thân và không thuộc trường hợp bị hạn chế quyền cư trú. Họ quyết định gửi đơn đến UBND xã nơi chủ trọ cư trú để yêu cầu can thiệp, đồng thời giữ lại chứng từ nộp tiền cọc để làm căn cứ đòi lại số tiền đã đóng. Sau khi giải quyết xong, chủ nhà trọ hoàn lại toàn bộ tiền cọc cho họ.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo.
2. Nam nữ sống chung rồi sau đó mới đăng ký kết hôn thì pháp luật công nhận hôn nhân từ khi nào?
Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định như sau:
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.
Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.
Theo đó, dù hai người đã sống chung từ trước, nhưng nếu chưa đăng ký kết hôn thì pháp luật không coi đó là quan hệ vợ chồng. Chỉ khi thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, quan hệ hôn nhân mới chính thức được công nhận và phát sinh quyền, nghĩa vụ theo luật (về tài sản, nhân thân, thừa kế…).
Thời gian sống chung trước đó không có giá trị pháp lý để xác định mốc thời gian kết hôn, trừ khi hai bên có tranh chấp tài sản hoặc con chung, khi đó sẽ được giải quyết theo quy định riêng.
Tình huống giả định
Anh Hoàng và chị Tuyết sống chung như vợ chồng tại một phòng trọ ở Bình Dương từ năm 2021, dù chưa đăng ký kết hôn. Năm 2024, họ đến UBND phường để hoàn tất thủ tục kết hôn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn hợp pháp. Tuy nhiên, khi xảy ra mâu thuẫn và ly hôn vào năm 2025, chị Tuyết yêu cầu tòa án ghi nhận thời gian hôn nhân từ năm 2021, thời điểm bắt đầu sống chung, để làm căn cứ chia tài sản.
Tuy nhiên, theo Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tòa án xác định quan hệ hôn nhân của họ chỉ được công nhận từ thời điểm đăng ký kết hôn năm 2024. Thời gian sống chung trước đó không làm phát sinh quan hệ vợ chồng về mặt pháp lý, nên chỉ được xem xét trong quá trình phân chia tài sản theo nguyên tắc giải quyết hậu quả của việc chung sống không đăng ký kết hôn.
Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo
Kết luận
Nam, nữ chưa kết hôn nhưng đều độc thân và đủ tuổi trưởng thành thì có quyền thuê trọ sống chung mà không bị pháp luật cấm hay hạn chế. Trường hợp hai người sống chung như vợ chồng rồi sau đó mới đăng ký kết hôn, quan hệ hôn nhân chỉ được pháp luật công nhận kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.