Với sự phát triển của mạng xã hội, nhiều cá nhân đã sử dụng livestream để kêu gọi quyên góp từ thiện, đặc biệt trong các đợt thiên tai, dịch bệnh. Tuy nhiên, không ít trường hợp sau khi nhận tiền từ thiện lại không minh bạch, thậm chí chiếm đoạt tiền để sử dụng cho mục đích cá nhân.
Vậy cá nhân có được phép livestream kêu gọi từ thiện không? Nếu lợi dụng việc đó để trục lợi, người vi phạm sẽ bị xử lý như thế nào theo pháp luật hình sự?
1. Cá nhân có được quyền livestream kêu gọi từ thiện không?
Căn cứ theo điểm h khoản 1 Điều 2 Nghị định 93/2021/ND-CP quy định:
Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Các tổ chức, cá nhân vận động, tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện:
...
h) Cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự tham gia vận động, tiếp nhận, phân phối nguồn đóng góp tự nguyện khắc phục khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố; hỗ trợ bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo.
....
Theo quy định trên, nếu bạn là cá nhân có đủ năng lực hành vi dân sự, bạn có quyền livestream kêu gọi từ thiện, tiếp nhận và phân phối tiền nhằm hỗ trợ các đối tượng khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, sự cố hoặc bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, phải minh bạch, trung thực, tránh mọi hành vi trục lợi.
Ví dụ thực tế:
Ca sĩ Thủy Tiên và chuyến cứu trợ miền Trung năm 2020
Trong đợt lũ lụt năm 2020, ca sĩ Thủy Tiên đã livestream kêu gọi cộng đồng hỗ trợ miền Trung và quyên góp được hơn 177 tỷ đồng. Cô trực tiếp đến các tỉnh miền Trung để trao tận tay số tiền này cho người dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Tuy nhiên, do chậm trễ trong việc công khai sao kê và minh bạch tài chính, Thủy Tiên đã đối mặt với nhiều chỉ trích và nghi ngờ từ dư luận. Sự việc này đã thu hút sự quan tâm lớn của công chúng và cơ quan chức năng.
Để làm rõ các cáo buộc, Bộ Công an đã tiến hành điều tra và xác định rằng ca sĩ Thủy Tiên không có hành vi gian dối, không chiếm đoạt tiền từ thiện và không có dấu hiệu phạm tội. Kết quả điều tra này được công bố vào tháng 1 năm 2022.
Mặc dù không bị xử lý hình sự, vụ việc này là một bài học quan trọng về trách nhiệm công khai và minh bạch khi kêu gọi và quản lý tiền từ thiện.
Nguồn: VnExpress
2. Trục lợi từ việc kêu gọi từ thiện có thể bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Căn cứ vào Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, quy định:
Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Hành vi giả mạo hoàn cảnh, sử dụng hình ảnh không có thật, dựng chuyện hoặc sử dụng danh nghĩa từ thiện để chiếm đoạt tiền là hành vi gian dối có tổ chức, bị xử lý hình sự. Mức phạt tù tùy theo giá trị tài sản chiếm đoạt và tính chất nghiêm trọng:
-
Từ 2 triệu đồng trở lên có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc tù từ 6 tháng đến 3 năm
-
Chiếm đoạt trên 50 triệu đồng có thể bị tù từ 2 năm đến 7 năm
-
Trên 200 triệu đồng: tù từ 7 năm đến 15 năm
-
Từ 500 triệu đồng trở lên: tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân
Ví dụ thực tế:
Vụ việc người phụ nữ giả mạo bị móc túi để kêu gọi từ thiện
Đầu tháng 2/2025, một người phụ nữ đã livestream trên mạng xã hội, khóc lóc kể về việc bị móc túi mất 9,5 triệu đồng tiền chữa bệnh cho con. Sau đó, cô nhận được 27 triệu đồng từ cộng đồng mạng. Tuy nhiên, khi cơ quan công an vào cuộc điều tra, phát hiện rằng thực tế cô đã làm mất tiền chứ không phải bị móc túi như đã kể. Hành vi này bị xác định là lừa đảo chiếm đoạt tài sản và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015.
Nguồn: ĐÀI PHÁT THANH & TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI
3. Trục lợi từ tiền từ thiện có thể bị coi là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?
Căn cứ vào Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Khác với tội lừa đảo (dùng thủ đoạn ngay từ đầu), tội lạm dụng tín nhiệm xảy ra khi ban đầu người kêu gọi được tin tưởng giao tiền, nhưng sau đó cố tình không sử dụng đúng mục đích, dùng vào việc riêng hoặc không hoàn trả. Hành vi này cũng bị xử lý hình sự.
-
Trục lợi từ 4 triệu đến dưới 50 triệu đồng: phạt cải tạo không giam giữ hoặc tù đến 3 năm
-
Từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng: tù từ 2 đến 7 năm
-
Trên 200 triệu đồng: tù từ 5 đến 12 năm
-
Từ 500 triệu trở lên: tù từ 12 đến 20 năm
Tình huống giả định:
Tháng 10/2023, tại TP.HCM, bà Nguyễn Tường Vy – một người nổi tiếng trên mạng xã hội với hàng trăm nghìn lượt theo dõi – đã đứng ra kêu gọi cộng đồng quyên góp tiền từ thiện để hỗ trợ đồng bào vùng lũ ở tỉnh Quảng Trị. Trong các video đăng tải trên TikTok và Facebook, bà Vy khóc lóc kể về hoàn cảnh thương tâm của người dân vùng lũ và cam kết toàn bộ số tiền quyên góp sẽ được chuyển tận tay người dân trong vòng hai tuần. Sau 10 ngày kêu gọi, tài khoản cá nhân của bà Vy nhận được hơn 1,2 tỷ đồng từ hàng nghìn mạnh thường quân. Tuy nhiên, bà Vy chỉ thực hiện một chuyến từ thiện trị giá khoảng 80 triệu đồng, phần còn lại không được công khai minh bạch. Khi bị yêu cầu sao kê và giải trình, bà Vy né tránh, chặn liên hệ với một số nhà hảo tâm và tiếp tục tiêu xài cá nhân bằng chính số tiền từ thiện đã nhận. Cơ quan điều tra vào cuộc và xác định bà Vy đã rút hơn 1 tỷ đồng từ tài khoản quyên góp để chi tiêu cho mua sắm, du lịch, sinh hoạt cá nhân, mà không còn khả năng khắc phục hậu quả. Với hành vi này, bà Vy bị khởi tố về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015, với khung hình phạt từ 12 đến 20 năm tù do số tiền chiếm đoạt trên 500 triệu đồng. Vụ việc là lời cảnh tỉnh rõ ràng đối với những ai lợi dụng hoạt động từ thiện để trục lợi, đồng thời nhấn mạnh yêu cầu minh bạch, đúng mục đích và tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt động kêu gọi đóng góp từ cộng đồng.
(Tình huống trên đây là tình huống không có thật, chỉ mang tính tham khảo)
4. Kết luận
Việc cá nhân livestream kêu gọi từ thiện là hoàn toàn hợp pháp nếu được thực hiện vì mục đích hỗ trợ thực sự và minh bạch tài chính. Tuy nhiên, nếu lợi dụng lòng tin cộng đồng để trục lợi, người vi phạm có thể bị xử lý hình sự về tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, với mức án từ 6 tháng tù đến chung thân tùy mức độ.