Lẽ công bằng được áp dụng khi nào trong tố tụng dân sự?

Lẽ công bằng được áp dụng khi nào trong tố tụng dân sự?

Lẽ công bằng được Tòa án áp dụng khi không có luật, tập quán hay các nguồn khác để giải quyết tranh chấp dân sự, bảo đảm công bằng và nhân đạo giữa các bên.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp dân sự, lẽ công bằng đóng vai trò như một điểm tựa đạo lý để đảm bảo sự công bằng và nhân đạo khi thiếu căn cứ pháp luật cụ thể. Đây là một chuẩn mực xử sự mang tính xã hội, được nhìn nhận rộng rãi trong thực tiễn xét xử.

1. Lẽ công bằng là gì?

Lẽ công bằng là gì?

Trả lời vắn tắt: Lẽ công bằng là chuẩn mực xử sự phù hợp với lẽ phải, được số đông xã hội thừa nhận nhằm bảo vệ quyềnlợi ích chính đáng của các bên khi không thể áp dụng quy phạm pháp luật, tập quán hay tương tự pháp luật.

Khoản 3 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

Điều 45. Nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng

...

3. Việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng được thực hiện như sau:

Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của Bộ luật dân sự, khoản 1 và khoản 2 Điều này.

Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự.

Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố.

Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.

Lẽ công bằng là một khái niệm không được định nghĩa cụ thể trong Bộ luật Dân sự hay các văn bản liên quan, nhưng lại được thừa nhận như một căn cứ giải quyết vụ việc dân sự trong những trường hợp đặc biệt. Về bản chất, đây là một tiêu chuẩn đạo lý, phản ánh nhận thức chung của cộng đồng về sự công bằng, hợp lý, và nhân văn trong các quan hệ xã hội.

Không giống như quy phạm pháp luật mang tính cứng nhắc, lẽ công bằng mang đến sự linh hoạt và mềm dẻo khi áp dụng, giúp Tòa án đưa ra những quyết định hợp lý trong trường hợp không có văn bản quy phạm điều chỉnh trực tiếp. Trong nhiều hệ thống pháp luật như Anh, Mỹ – nơi chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của thông luật – lẽ công bằng (equity) còn phát triển thành một nhánh riêng để bảo vệ quyền lợi chính đáng mà pháp luật thành văn không bao phủ được.

Ở Việt Nam, lẽ công bằng không được xem là nguồn luật độc lập nhưng lại có giá trị bổ trợ khi xét xử dân sự. Khi áp dụng lẽ công bằng, Thẩm phán không thể đơn thuần dựa vào cảm tính hay nhận thức cá nhân mà phải cân nhắc trên tinh thần bình đẳng, nhân đạo và sự công nhận của cộng đồng. Điều này cũng góp phần hạn chế tình trạng xử lý máy móc theo văn bản, đồng thời bảo đảm tính hợp lý và nhân văn trong từng bản án.

Ví dụ thực tế:

Án lệ ghi nhận công sức người sử dụng đất không có quyền sở hữu nhờ áp dụng lẽ công bằng

Trong vụ án dân sự phúc thẩm số 149/2020/DS-PT ngày 06/7/2020, TAND tỉnh Bình Dương đã vận dụng lẽ công bằng để giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa Chùa P và bà Nguyễn Thị Anh T. Mặc dù Chùa P là chủ sở hữu hợp pháp của thửa đất gần 1.000m² theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2006, bà T lại là người trực tiếp sử dụng đất suốt hơn 30 năm, có đóng hoa lợi và giữ gìn đất từ thời điểm được giao canh tác.

Tòa án xác định bà T không có quyền sử dụng đất hợp pháp nhưng đã có công sức rõ rệt trong việc quản lý, giữ gìn, cải tạo đất đai một cách thiện chí, trung thực và liên tục. Do pháp luật không quy định cụ thể về trường hợp này, Tòa đã áp dụng lẽ công bằng, buộc Chùa P thanh toán cho bà T 5% giá trị quyền sử dụng đất – tương đương 286 triệu đồng – để đảm bảo sự công bằng và hài hòa lợi ích giữa hai bên.

Bản án này là một ví dụ tiêu biểu cho việc vận dụng lẽ công bằng khi không có điều luật hoặc án lệ rõ ràng để điều chỉnh vụ việc. Việc ghi nhận công sức của người sử dụng đất bằng khoản thanh toán hợp lý cho thấy vai trò bổ sung quan trọng của lẽ công bằng trong xét xử dân sự và hoàn toàn có thể trở thành cơ sở để phát triển án lệ chính thức trong tương lai.

Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao


2. Khi nào Tòa án được áp dụng lẽ công bằng?

Khi nào Tòa án được áp dụng lẽ công bằng?

Trả lời vắn tắt: Lẽ công bằng chỉ được áp dụng khi vụ việc dân sự không thể giải quyết bằng điều luật, tập quán hoặc tương tự pháp luật, và phải đảm bảo tính nhân đạo, không thiên vị, công bằng giữa các bên.

Khoản 2 và 3 Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

Bộ luật Tố tụng dân sự 2015

Điều 4. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

...

2. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.

Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng.

Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy định.

...

Điều 45. Nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng

...

2. Việc áp dụng tương tự pháp luật được thực hiện như sau:

Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng theo quy định tại Điều 5 của Bộ luật dân sự và khoản 1 Điều này.

Khi áp dụng tương tự pháp luật, Tòa án phải xác định rõ tính chất pháp lý của vụ việc dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không có quy phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.

3. Việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng được thực hiện như sau:

Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật theo quy định tại Điều 5 và khoản 1 Điều 6 của Bộ luật dân sự, khoản 1 và khoản 2 Điều này.

Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự.

Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố.

Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.

...

Điều 264. Nghị án

1. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án.

2. Chỉ có các thành viên Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên Hội đồng xét xử phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này thì còn phải căn cứ vào tập quán, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.

3. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án trước khi tuyên án.

4. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá 05 ngày làm việc, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa về giờ, ngày và địa điểm tuyên án. Trường hợp Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt vào ngày, giờ và địa điểm tuyên án thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo quy định tại Điều 267 của Bộ luật này.

Việc áp dụng lẽ công bằng không diễn ra một cách tùy tiện, mà phải tuân theo một trình tự có thứ tự ưu tiên trong pháp luật dân sự và tố tụng dân sự. Cụ thể, lẽ công bằng chỉ được sử dụng khi các nguồn giải thích khác như quy phạm pháp luật, tập quán và quy phạm tương tự không thể đáp ứng được yêu cầu giải quyết vụ việc. Đây là biện pháp cuối cùng nhằm bảo đảm vụ việc vẫn được xử lý đúng đắn và hợp lý, phù hợp với nguyên tắc không để tranh chấp bị bỏ ngỏ chỉ vì thiếu điều luật.

Theo quy định tại Điều 4 và Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Trong những trường hợp như vậy, Hội đồng xét xử có quyền căn cứ vào các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, tập quán, và cuối cùng là lẽ công bằng để giải quyết.

Điều này thể hiện rõ vai trò bổ trợ nhưng cũng rất quan trọng của lẽ công bằng. Nó không thay thế luật pháp, mà chỉ xuất hiện trong những tình huống đặc biệt – khi mọi công cụ pháp lý khác đã được cân nhắc nhưng vẫn không thể giải quyết dứt điểm. Trong bối cảnh đó, lẽ công bằng giúp đảm bảo quyết định của Tòa án không chỉ đúng về hình thức pháp lý mà còn hợp tình, hợp lý, đúng với chuẩn mực đạo lý được cộng đồng xã hội công nhận.

Ví dụ thực tế:

Tòa án áp dụng lẽ công bằng để buộc vợ cũ bồi thường khi chồng nuôi nhầm con suốt 4 năm

Trong vụ án dân sự sơ thẩm số 04/2020/DS-ST ngày 28/5/2021, Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ đã áp dụng lẽ công bằng để giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong một tình huống hôn nhân – gia đình khá đặc biệt. Nguyên đơn là anh Đinh Hồng V, sau khi ly hôn mới phát hiện cháu Đinh Tùng L – người anh nuôi dưỡng suốt hơn 4 năm như con ruột – thực tế lại không có quan hệ huyết thống với mình. Anh V cho rằng hành vi lừa dối của bị đơn, chị Nguyễn Thị Thanh H, đã gây tổn thương nặng nề về tinh thần và thiệt hại tài chính, nên yêu cầu bồi thường tổng cộng gần 100 triệu đồng.

Tòa án xác định rằng, dù hiện nay chưa có quy định pháp luật cụ thể hoặc án lệ điều chỉnh trực tiếp về việc “nuôi nhầm con do bị vợ lừa dối”, nhưng đây là quan hệ dân sự có thật, phát sinh trong thực tế đời sống. Do không thể áp dụng tương tự pháp luật, Hội đồng xét xử đã viện dẫn Điều 6 Bộ luật Dân sự 2015 để áp dụng các nguyên tắc cơ bản và lẽ công bằng. Tòa nhấn mạnh: việc anh V nuôi dưỡng cháu L không chỉ là trách nhiệm tự nguyện mà còn xuất phát từ sự tin tưởng, kỳ vọng vào mối quan hệ huyết thống cha – con, và chính kỳ vọng đó đã bị phá vỡ một cách đau đớn khi sự thật được phơi bày.

Lẽ công bằng được Tòa vận dụng như một cơ sở để xác lập trách nhiệm bồi thường, trong bối cảnh pháp luật chưa kịp điều chỉnh. Căn cứ vào mức chi phí hợp lý để nuôi một trẻ nhỏ, thời gian nuôi dưỡng, mức tổn thất tinh thần và công chăm sóc, Tòa tuyên buộc chị H phải bồi thường tổng cộng 96.970.000 đồng cho anh V. Phán quyết này không chỉ bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn mà còn góp phần lấp đầy khoảng trống pháp lý bằng một giải pháp hợp tình, hợp lý, mang đậm tính nhân văn và phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.

Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao

3. Kết luận

Lẽ công bằng là chuẩn mực xử sự mang tính xã hội, góp phần hoàn thiện quá trình giải quyết tranh chấp dân sự trong những trường hợp chưa có quy định pháp luật cụ thể. Tòa án chỉ được vận dụng lẽ công bằng khi vụ việc không thể giải quyết bằng các nguồn khác, và việc áp dụng phải đảm bảo tính nhân đạo, khách quan và công bằng giữa các bên.

Tố Uyên
Biên tập

Là một người yêu thích phân tích các vụ việc pháp lý và luôn cập nhật các vấn đề thời sự pháp luật, Uyên luôn tìm kiếm sự cân bằng giữa độ chính xác và tính truyền cảm trong từng sản phẩm biên tập. Đố...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Mức đánh giá của bạn:
Tên (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Nội dung đánh giá