Hết thời hiệu khởi kiện hợp đồng, Tòa án xử lý ra sao?

Hết thời hiệu khởi kiện hợp đồng, Tòa án xử lý ra sao?

Thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng là 3 năm. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp đặc biệt pháp luật không áp dụng thời hiệu khởi kiện.

Trong các tranh chấp dân sự liên quan đến hợp đồng, việc xác định thời hiệu khởi kiện là yếu tố then chốt quyết định Tòa án có thụ lý vụ việc hay không. Trên thực tế, không ít trường hợp người khởi kiện để vụ việc kéo dài, đến khi phát sinh tranh chấp mới tiến hành khởi kiện thì đã hết thời hiệu theo luật định. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người chưa nắm rõ những trường hợp nào được xem là ngoại lệ và khi nào Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện vì hết thời hiệu.

1. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng là bao lâu?

Trả lời vắn tắt: Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, tính từ ngày người có quyền khởi kiện biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng là bao lâu?

Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định cụ thể về vấn đề này tại Điều 429 như sau:

Bộ luật Dân sự 2015

Điều 429. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng là 03 năm, tính từ thời điểm người có quyền biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Không phải lúc nào cũng có thể căn cứ vào ngày ký hợp đồng hay ngày vi phạm rõ ràng để xác định thời hiệu. Trong thực tế, nhiều tranh chấp phát sinh từ các hành vi trì hoãn, che giấu vi phạm, hoặc các nghĩa vụ hợp đồng được thực hiện kéo dài qua nhiều giai đoạn.

Điều này khiến việc xác định thời điểm “người có quyền biết hoặc phải biết” trở thành điểm mấu chốt trong các vụ tranh chấp hợp đồng. Nó không chỉ là yếu tố pháp lý đơn thuần, mà còn liên quan đến việc đánh giá bằng chứng, mức độ chủ quan của bên bị thiệt hại, và thậm chí là bối cảnh cụ thể của từng vụ việc.

Trong các vụ kiện hợp đồng, người bị xâm phạm quyền lợi cần đưa ra được lý do hợp lý, thuyết phục để chứng minh thời điểm bắt đầu tính thời hiệu là thời điểm họ mới phát hiện hành vi vi phạm – chứ không phải thời điểm thực tế hành vi đó diễn ra. Nếu Tòa án chấp nhận lập luận đó, họ vẫn có quyền khởi kiện dù đã qua nhiều năm kể từ ngày ký hợp đồng.

Nhiều người do thiếu hiểu biết pháp luật hoặc quá tin tưởng đối phương nên không kịp thời khởi kiện. Khi hậu quả đã rõ ràng, họ mới bắt đầu hành động thì đã tiệm cận giới hạn thời hiệu – thậm chí quá thời hạn cho phép. Đây là một lỗ hổng đáng tiếc mà nếu không nắm rõ quy định, người bị thiệt thòi sẽ là bên chậm trễ hành động.

Tình huống giả định

Năm 2018, ông Lê Văn Trí – chủ một xưởng gỗ tại Bình Định – ký hợp đồng mua bán với bà Trần Thị Mai, giám đốc một doanh nghiệp nội thất tại TP.HCM. Theo thỏa thuận, bà Mai đặt cọc 500 triệu đồng để ông Trí cung cấp 1.000m² gỗ sồi nhập khẩu dùng cho dự án khách sạn cao cấp, thời hạn giao hàng là trong quý I năm 2019.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ lệnh kiểm tra hải quan, số hàng nhập của ông Trí bị giữ lại gần ba tháng. Dù cố gắng xoay xở, ông không thể giao hàng đúng hẹn. Sau nhiều lần thương lượng bất thành, bà Mai tuyên bố hủy hợp đồng, yêu cầu ông Trí hoàn lại toàn bộ tiền đặt cọc và bồi thường chi phí thiệt hại do trễ tiến độ thi công.

Ông Trí không đồng ý, viện dẫn lý do bất khả kháng, chỉ đồng ý trả lại một phần cọc. Từ đó, hai bên không liên lạc nữa. Bà Mai cho rằng tranh chấp nhỏ, không đáng để kiện, nên tạm gác lại.

Đến giữa năm 2023, sau khi nhận được kết luận thanh tra tài chính yêu cầu thu hồi lại các khoản tổn thất do dự án khách sạn chậm tiến độ, bà Mai mới quyết định khởi kiện ông Trí để đòi lại toàn bộ số tiền đặt cọc kèm theo bồi thường hơn 300 triệu đồng.

Tuy nhiên, khi nộp đơn lên Tòa án nhân dân quận 3 (nơi bị đơn có trụ sở), bà Mai nhận được thông báo Tòa không thụ lý đơn vì hết thời hiệu khởi kiện. Cụ thể, theo Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng là 03 năm kể từ ngày người khởi kiện biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Trong trường hợp này, bà Mai đã biết rõ ông Trí không giao hàng và không trả cọc từ giữa năm 2019, nhưng mãi đến năm 2023 mới nộp đơn kiện, tức quá thời hiệu hơn 1 năm.
(Tình huống trên hoàn toàn mang tính giả định nhằm minh họa rõ hơn quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện hợp đồng.)

2. Trường hợp nào không áp dụng thời hiệu khởi kiện?

Trả lời vắn tắt: Những tranh chấp về quyền nhân thân, quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, hoặc các trường hợp đặc biệt do luật quy định sẽ không bị giới hạn bởi thời hiệu khởi kiện.

Trường hợp nào không áp dụng thời hiệu khởi kiện?

Trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, thời hiệu khởi kiện được đặt ra nhằm tạo ra sự ổn định cho các quan hệ pháp lý. Tuy nhiên, có một số trường hợp nhất định, vì tính chất đặc biệt của quyền bị xâm phạm hoặc vì lý do bảo vệ lợi ích công cộng, Nhà nước không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Cụ thể được nêu rõ tại Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

Bộ luật Dân sự 2015

Điều 155. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu

Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu không áp dụng trong các trường hợp sau đây:

  1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản;

  2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác;

  3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai;

  4. Trường hợp khác do luật quy định.

Những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện thường liên quan đến các quyền cơ bản, gắn liền với con người hoặc tài sản có tính chất đặc biệt, mà pháp luật cần bảo vệ một cách toàn diện và lâu dài. Nếu áp dụng thời hiệu đối với các trường hợp này, người bị xâm phạm có thể vĩnh viễn mất đi quyền được pháp luật bảo vệ – điều này đi ngược lại nguyên tắc công bằng và tinh thần nhân đạo của pháp luật dân sự.

Ví dụ điển hình là các quyền nhân thân không gắn với tài sản, như quyền được khai sinh, quyền được đặt tên, quyền xác định lại giới tính (nếu có quy định pháp luật điều chỉnh), quyền nhận cha mẹ, con cái… Đây đều là những quyền phát sinh trong đời sống cá nhân, có thể bị xâm phạm âm thầm trong một thời gian dài mà người bị hại không hay biết. Vì vậy, dù 5 năm, 10 năm hay lâu hơn mới phát hiện, thì Tòa án vẫn phải thụ lý và giải quyết nếu có căn cứ.

Một trường hợp khác rất phổ biến là tranh chấp quyền sử dụng đất. Đất đai là tài sản đặc biệt, thuộc sở hữu toàn dân và được Nhà nước trao quyền sử dụng cho cá nhân, tổ chức. Do đó, các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất luôn được xem là trường hợp đặc biệt, không bị ràng buộc bởi thời hiệu khởi kiện, bất kể xảy ra từ bao giờ. Pháp luật cũng quy định như vậy nhằm ngăn chặn tình trạng cố tình "để lâu hóa nhẹ" – ví dụ như người lấn chiếm đất của người khác nhưng chờ quá 3 năm để bên bị xâm phạm không khởi kiện, rồi tìm cách hợp thức hóa quyền sử dụng. Nếu không có ngoại lệ về thời hiệu trong các trường hợp này, hậu quả sẽ rất nguy hiểm và tạo tiền lệ xấu trong xã hội.

Ngoài ra, trong các vụ việc dân sự có yếu tố nhân thân hoặc liên quan đến trật tự công cộng, việc áp dụng thời hiệu quá máy móc có thể khiến nhiều vụ việc bị bỏ qua dù tính chất pháp lý vẫn còn nguyên. Đơn cử như việc xác định lại quốc tịch, thay đổi hộ tịch hay tranh chấp quyền giám hộ trẻ em – đây đều là những vấn đề pháp lý cần được Tòa án xem xét bất kể thời gian phát sinh là bao lâu.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý: việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện không có nghĩa là người khởi kiện đương nhiên sẽ thắng kiện. Họ vẫn phải chứng minh rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình thực sự bị xâm phạm. Nếu không có căn cứ rõ ràng, Tòa án hoàn toàn có thể bác đơn như các vụ án thông thường khác.

Tình huống giả định

Cô Nguyễn Thị An, sinh năm 1958, sống tại huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Cha mẹ cô mất sớm, để lại cho ba người con một mảnh đất hơn 500m² tại trung tâm thị trấn. Vì hoàn cảnh nghèo khó, cô An một mình lên Sài Gòn mưu sinh từ năm 1985, cắt đứt liên lạc với gia đình.

Năm 2023, sau gần 40 năm, cô An về quê thăm lại người thân và phát hiện toàn bộ phần đất do cha mẹ để lại đã được người em trai út – ông Nguyễn Văn Long – đứng tên sổ đỏ từ năm 2002 và hiện đang cho thuê mở siêu thị mini.

Khi hỏi lại gia đình, cô được biết trước đây ông Long nói rằng cô đã chết và ký các giấy tờ khai nhận thừa kế một mình. Cô vô cùng bất ngờ và cho rằng mình vẫn còn quyền thừa kế đối với phần đất cha mẹ để lại. Ngay sau đó, cô làm đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng để yêu cầu chia lại phần di sản thừa kế.

Phía ông Long phản bác, cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết vì cô An không tranh chấp gì trong suốt hơn 20 năm qua. Tuy nhiên, sau khi xem xét hồ sơ, Tòa án xác định: đây là tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất nên không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015. Vụ án được Tòa thụ lý giải quyết. Sau nhiều lần hòa giải không thành, Tòa tuyên buộc ông Long phải chia lại phần đất thừa kế tương ứng với quyền lợi của cô An – tức 1/3 giá trị thửa đất hiện tại.

(Tình huống trên hoàn toàn mang tính giả định nhằm minh họa trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định pháp luật.)

Kết luận

Thời hiệu khởi kiện trong tranh chấp hợp đồng là yếu tố quan trọng, có thể quyết định việc Tòa án có thụ lý vụ án hay không. Người khởi kiện cần nắm rõ thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và chủ động thực hiện quyền khởi kiện trong thời gian cho phép. Trong những trường hợp đặc biệt như tranh chấp quyền nhân thân hay quyền sử dụng đất, pháp luật có quy định ngoại lệ không áp dụng thời hiệu, nhằm bảo vệ công bằng và tránh để người vi phạm trốn tránh trách nhiệm chỉ vì thời gian kéo dài.

Gia Nghi
Biên tập

Sinh viên khoa Chất lượng cao, chuyên ngành Dân sự - Thương mại - Quốc tế tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Mình luôn cố gắng học hỏi và trau dồi kiến thức để hiểu rõ hơn về pháp luật và cách á...

0 Rate
1
0 Rate
2
0 Rate
3
0 Rate
4
0 Rate
5
0 Rate
Choose your rating score:
Name (*)
Số điện thoại (*)
Email (*)
Rating content